Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người đồng tính nữ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 15:
Từ ''đồng tính nữ'' bắt nguồn từ [[Lesbos]] - một hòn đảo Hy Lạp, quê hương của nhà thơ [[Sappho]] ở thế kỷ XVI TCN.<ref name="Lesbian"/> Từ rất nhiều những bài viết cổ, các nhà sử học đã tìm ra được rằng một nhóm phụ nữ trẻ đã được Sappho hướng dẫn và chỉ dạy về văn hóa.<ref>Foster, p. 18.</ref> Rất ít những bài thơ của Sappho còn được lưu trữ, nhưng những bài thơ còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy chủ đề chính trong thơ ca của bà: đời sống thường ngày của phụ nữ, những mối quan hệ của họ, và những nghi thức.<ref>Aldrich, pp. 47–49.</ref> Bà tập trung vào vẻ đẹp của phụ nữ và tuyên bố tình yêu của bà dành cho nữ giới. Trước những năm giữa thế kỷ XIX,<ref>{{cite book|last=Gollmann|first=Wilhelm|others=[[Charles Julius Hempel]]; J. Emerson Kent|title=The Homeopathic Guide, In All Diseases of the Urinary and Sexual Organs, Including the Derangements Caused by Onanism and Sexual Excesses|year=1855|publisher=Rademacher & Sheek|location=Philadelphia|page=201|url=https://books.google.com/books?id=AzkzAQAAMAAJ&q=%22this+vice+has+derived+its%22&pg=PA201}}</ref> từ ''lesbian'' (đồng tính nữ) đề cập tới những thứ có nguồn gốc hoặc những khía cạnh của Lesbos, trong đó bao gồm cả tên một loại rượu.{{efn|An attempt by natives of Lesbos (also called "Mytilene" in Greece) in 2008 to reclaim the word to refer only to people from the island was unsuccessful in a Greek court. Inhabitants of Lesbos claimed the use of ''lesbian'' to refer to female homosexuality violated their human rights and "disgrace[d] them around the world".<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/7520343.stm Lesbos locals lose lesbian appeal], BBC News Europe [July 22, 2008]. Retrieved on February 3, 2009.</ref>}}
 
Trong tập thơ Sapphics năm 1866 của [[Algernon Charles Swinburne]], từ “lesbian” xuất hiện hai lần, nhưng được viết hoa cả hai lần đó, và đều được dùng sau khi nhắc tới đảo Lesbos, và cũng có thể được dùng với ý nghĩa: “bắt nguồn từ đảo Lesbos”.<ref>{{cite web |url=http://www.poetryfoundation.org/poem/174569 |title=Sapphics |last1=Swinburne |first1=Algernon Charles |website=poetryfoundation |publisher=Poetry Foundation }}</ref> Năm 1875, George Saintsbury, trong bài viết về thơ ca của Baudelaire, đã nhắc tới “nghiên cứu về Lesbian” của ông, mà trong đó còn có cả thơ về “nhiệt huyết của Delphine”, một bài thơ đơn thuần về tình yêu giữa hai người phụ nữ mà không hề nhắc tới đảo Lesbos, mặc dù một bài thơ khác trong đó với tựa đề “Lesbos”, thì lại có.<ref name=Cohen2001>{{cite book|editor1-last=Cohen|editor1-first=Margaret|editor2-last=Dever|editor2-first=Carolyn|title=The Literary Channel: The Inter-National Invention of the Novel|date=2001|pages=251–285|chapter=Chapter Ten: Comparative Sapphism, [[Sharon Marcus]]|publisher=[[Princeton University Press]]|location=Princeton, New Jersey|url=https://academiccommons.columbia.edu/download/fedora_content/download/ac:157283/CONTENT/Sharon_Marcus_-_Comparative_Sapphism.pdf|isbn=978-0691050010}} (Document made available by [[Columbia University Libraries]]. PDF downloads automatically.)</ref> Việc sử dụng từ ''lesbianism'' để miêu tả mối quan hệ tình ái giữa những người phụ nữ đã xuất hiện trong một văn bản năm 1870.<ref name="Zimmerman, 20th century terminology">Zimmerman, pp. 776–777.</ref> Năm 1890, thuật ngữ ''lesbian'' đã được sử dụng trong một cuốn từ điển về y khoa như một tính từ để miêu tả hành động cọ xát âm hộ (với nghĩa như “tình yêu đồng tính nữ”). Thuật ngữ ''lesbian'', ''invert'' (''đảo ngược'') và ''đồng tính'' đã được sử dụng và có thể thay thế từ ''sapphist'', ''sapphism'' (đồng tính nữ) vào đầu thế kỷ XX.<ref name="Zimmerman, 20th century terminology"/> Việc sử dụng từ ''lesbian'' trong văn kiện về y dược đã trở nên phổ biến; và tới năm 1925, từ này đã được ghi nhận là một danh từ chỉ một người nữ tương đương với từ [[sodomy|sodomite]] (người thực hiện những hành vi tình dục không tự nhiên).<ref name="Zimmerman, 20th century terminology"/><ref name="oed">"Lesbian", [http://dictionary.oed.com/ Oxford English Dictionary], Second Edition, 1989. Retrieved on January 7, 2009.</ref>
 
Sự phát triển trong kiến thức về y dược là một nhân tố đáng kể trong việc mở rộng nghĩa của thuật ngữ ''lesbian''. Vào giữa thế kỷ XIX, những tác giả trong mảng y dược đã thử tìm cách để nhận dạng đồng tính nam, vốn được coi là một vấn đề xã hội nổi trội trong hầu hết các xã hội Tây phương. Trong khi phân loại những hành vi là dấu hiệu cho hiện tượng ''[[đảo ngược]]'', theo cách gọi của nhà tính dục học [[Magnus Hirschfeld]], các nhà nghiên cứu đã phân rõ những hành vi tính dục bình thường đối với nam và nữ giới, và từ đó cũng chỉ ra nam và nữ giới có thể khác biệt đến mức độ nào so với ''chuẩn nam tính'' và ''chuẩn nữ tính''.<ref>Aldrich, p. 168.</ref>
 
Văn học về đồng tính nữ có số lượng ít hơn rõ rệt so với đồng tính nam, bởi những chuyên gia về y học không coi đó là một vấn đề nổi trội. Trong một số trường hợp, sự tồn tại của khái niệm này không được biết tới. Tuy nhiên, nhà tính dục học [[Richard von Krafft-Ebing]] người Đức, và [[Havelock Ellis]] người Anh đã làm công việc phân nhóm cho [[sự thu hút cùng giới]] giữa phụ nữ thuộc vào loại sớm nhất và có giá trị lâu dài hơn. Trong đó, họ tiếp cận sự hấp dẫn này như một dạng của bệnh điên (nhận định của Ellis rằng đồng tính nữ là một bệnh lý đã không còn được tin tưởng trong thời điểm hiện tại).<ref>Faderman (1981), p. 241.</ref> Krafft-Ebing coi đồng tính nữ (hoặc theo cách gọi của ông, “[[Uranism]]”) là một bệnh lý tâm thần. Còn Ellis, bị ảnh hưởng bởi các bài viết của Krafft-Ebing, bất đồng với ý kiến rằng sự đảo ngược về tính dục là một tình trạng kéo dài suốt đời. Ellis tin rằng rất nhiều phụ nữ tự nhận là có tình cảm với người cùng giới đã thay đổi cảm nghĩ của họ về những mối quan hệ như vậy sau khi được trải nghiệm hôn nhân và một “cuộc sống thực tế”.<ref>Faderman (1981), p. 242.</ref>
 
Tuy nhiên, Ellis cũng thừa nhận sự tồn tại của những người “thực sự đảo ngược” - những người sẽ dành cả cuộc đời để theo đuổi những mối quan hệ tình ái với phụ nữ. Những người này là thành viên của một “[[giới tính thứ ba]]”, họ từ chối tuân theo những khuôn mẫu về người phụ nữ: phụ thuộc, nữ tính và chỉ tập trung lo việc gia đình.<ref>Faderman (1981), p. 240.</ref> ''Đảo ngược'' (''invert'') chỉ những vai trò giới đối lập, và liên quan tới đó là việc bị hấp dẫn bởi phụ nữ thay vì đàn ông; bởi phụ nữ trong [[thời kỳ Victoria]] được coi là không thể chủ động khởi đầu một mối quan hệ tình cảm, và phụ nữ làm như vậy với những người phụ nữ khác sẽ được coi là có những khao khát về tình dục nam tính.<ref>Jennings, p. 77.</ref>
 
Nghiên cứu của Krafft-Ebing và Ellis đã được đọc rộng rãi và góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về đồng tính nữ.{{efn|In Germany between 1898 and 1908 over a thousand articles were published regarding the topic of homosexuality.<ref>(Faderman [1981], p. 248)</ref> Khẳng định của những nhà tình dục học rằng đồng tính luyến ái là một dị tật bẩm sinh đã được chấp nhận bởi hầu hết những người đồng tính nam. Điều này chỉ ra rằng những hành vi của họ không bị ảnh hưởng bởi, và cũng không nên được coi là một hành vi phạm tội theo như suy nghĩ của đa số. Do sự thiếu thốn về tài nguyên để miêu tả cảm xúc của bản thân, những người đồng tính chấp nhận việc bị quy chụp là khác biệt hay biến thái, và dùng chính cái mác ngoài vòng pháp luật ấy để hình thành nên những nhóm xã hội ở Paris và Berlin. Từ ''lesbian'' bắt đầu được sử dụng để nói về những thành phần của một nhóm văn hóa.<ref>Aldrich, 178–179.</ref>
 
Những người đồng tính nữ, cụ thể là trong các nền văn hóa Tây phương, thường tự coi rằng bản thân có một [[danh tính]] có thể định nghĩa cho tính dục của cá nhân họ, cũng như là một thành viên trong một nhóm với những đặc điểm chung.<ref name="rust">Rust, Paula C. (November 1992). "The Politics of Sexual Identity: Sexual Attraction and Behavior Among Lesbian and Bisexual Women", ''Social Problems'', '''39''' (4), pp. 366–386.</ref> Phụ nữ trong rất nhiều nền văn hóa xuyên suốt lịch sử đã có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, nhưng ít khi được coi là một phần trong một nhóm người hình thành dựa trên đối tượng mà họ có những mối quan hệ thể xác cùng. Bởi phụ nữ thường là những người yếu thế trong chính trị ở các nền văn hóa Tây phương, những khuôn mẫu y học về đồng tính được thêm vào đã trở thành nguyên nhân cho sự phát triển định danh của nhóm văn hóa.<ref name="aldrich239">Aldrich, p. 239.</ref>