Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Lào (sau năm 1945)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 183:
===Mục tiêu của Hoa Kỳ===
Mục tiêu của Hoa Kỳ ở Lào là thúc đẩy sự kiểm soát của chính phủ càng xa càng tốt về phía đông. Hoa Kỳ đã tìm cách ngăn chặn các lực lượng Pathet Lào đang cố chiếm đóng Cánh đồng Chum. Sau năm 1968, Hoa Kỳ thực hiện được điều này chủ yếu nhờ lực lượng dân quân Hmong của Vang Pao và các cuộc ném bom lớn vào các các căn cứ cộng sản. Các mục tiêu khác của Hoa Kỳ là thu thập thông tin tình báo và làm gián đoạn việc sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và vì điều này, họ phải dựa vào sức mạnh không quân. Trong thời kỳ này, Lào bị ném bom nặng nề hơn bất kỳ quốc gia nào trong lịch sử: nhiều cơ sở hạ tầng trong khu vực Pathet Lào bị phá hủy và nhiều người phải tị nạn. Các mục tiêu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn bị hủy diện cao hơn. Mục tiêu chính của họ là giữ cho đường mòn Hồ Chí Minh ở phía nam được mở, và ngăn chặn việc Mỹ sử dụng Lào làm căn cứ để đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chiến tranh biến tính khi hai bên lần lượt chiếm Cánh đồng Chum.
 
Năm 1969, Richard Nixon trở thành Tổng thống Hoa Kỳ và bắt đầu quá trình kéo dài hạ nhiệt chiến tranh Việt Nam và tìm kiếm một giải pháp chính trị. Nhưng điều này không đem lại kết quả hòa bình ngay lập tức ở Lào. Chính quyền mới theo đuổi những mục tiêu giống nhau bằng cùng một phương thức, và trên thực tế trong suốt hai năm 1969 và 1970, chiến dịch ném bom nhằm vào miền Bắc Việt Nam và Pathet Lào đã gia tăng cường độ. Đầu năm 1969, Hoa Kỳ cùng lực lượng Hmong của Vang Pao lấn chiếm Cánh đồng Chum trong suốt mùa mưa, khiến Pathet Lào cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam phải rút về vùng biên giới. Tuy nhiên, thành công chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Pathet Lào cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát động một cuộc phản công với hai sư đoàn do một lực lượng xe tăng lớn dẫn đầu. Tất cả số vùng đất lấn chiếm trong năm đó đã bị mất về tay quân Pathet Lào.
 
Tháng 3 năm 1970, chính phủ Lon Nol ở Campuchia chấm dứt chính sách phớt lờ sự hiện diện của người Việt Nam tại nước này. Cảng Sihanoukville ở Campuchia, nơi thực sự là một bến tiếp tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong nhiều năm, đã bị chính phủ đóng cửa. Campuchia sớm sụp đổ trong chiến tranh. Điều này có tác dụng làm cho các tuyến đường tiếp tế từ Bắc Việt Nam qua Lào càng quan trọng hơn đối với Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1970, Pathet Lào cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu tiến sâu về phía tây Lào. Trong cùng năm, các đơn vị của Quân đội Thái Lan tham gia vào cuộc xung đột. Với tên gọi là Tiểu đoàn Thống nhất về lý thuyết là những người tình nguyện, nhưng thực chất là những lực lượng chính quy Thái Lan.
 
Năm 1971, Quân đội Hoàng gia Lào tham gia trở lại cuộc xung đột. Việc Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến sâu vào đất nước đã phá hủy hiện trạng và khiến Quân đội phải hành động trở lại. Vào tháng 7, lực lượng Thái Lan và các lực lượng không chính quy đã cố gắng lặp lại cuộc tấn công thành công năm 1969 vào Cánh đồng Chum. Nhưng Pathet Lào cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã học được từ những sai lầm trước đây của họ và rút lui có trật tự trước cuộc tấn công. Trong khi chiếm được nhiều lãnh thổ, không có thiệt hại nghiêm trọng nào cho Quân đội Nhân dân Việt Nam.
 
Quân đội Thái Lan và các lực lượng không chính quy đã xây dựng một chuỗi công sự ở giữa Cánh đồng Chum. Năm 1971, Hoa Kỳ tài trợ cho một cuộc tấn công vào Nam Lào của quân đội Việt Nam Cộng hòa, với mục đích cắt đứt con đường mòn và củng cố chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi Hoa Kỳ rút quân tham chiến. Cuộc xâm lược đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam chống trả một cách gay gắt và bị đánh bại một cách dứt khoát. Pathet Lào cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng trả đũa bằng cách chiếm một số tỉnh lỵ mà họ đã bao vây trước đó nhưng không cố gắng chiếm lấy.
 
Khoảng 50,000 người đã thiệt mạng tại Lào trong cuộc chiến, nhiều người trong số họ là thường dân Lào. Trong khi các dân tộc thiểu số chủ yếu cư trú trên núi của các khu vực Pathet Lào chịu hậu quả khủng khiếp của chiến tranh, thì phần lớn người Lao-Lùm ở các thị trấn ở Thung lũng sông Mê Kông lại ít bị ảnh hưởng về mặt quân sự. Dòng nhân lực và tiền của Hoa Kỳ (ước tính khoảng 500 triệu đô la Mỹ viện trợ riêng) đã tạo ra một sự bùng nổ kinh tế ở các thị trấn khi các ngành dịch vụ phát triển để đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến và lượng lớn dân cư Mỹ thường trú.
 
Các tướng lĩnh và chính trị gia Lào, do Phoumi lãnh đạo cho đến khi ông mất quyền vào năm 1965, đã trở nên giàu có nhờ tham nhũng, buôn bán ma túy, mại dâm và buôn lậu, và một số lượng lớn người Lào bình thường lần đầu tiên chuyển sang kinh tế tiền mặt, đặc biệt là ở Viêng Chăn, đã phát triển nhanh chóng. Cuộc chiến cũng lần đầu tiên khiến người Lào tiếp xúc với toàn bộ sức mạnh của văn hóa đại chúng phương Tây, với một hậu quả mà cả những người theo Đạo Phật và những người theo đạo Phật bảo thủ đều coi là làm băng hoại sâu sắc truyền thống và văn hóa của Lào.
 
Trong những năm này, Pathet Lào đã tìm cách thể hiện một hình ảnh về sự điều độ ở cả trong nước và quốc tế. Souphanouvong, với tư cách là người đứng đầu Mặt trận Lào yêu nước, là đại diện công khai của Pathet Lào, trong khi Đảng Nhân dân và lãnh đạo Kaysone vẫn ở trong hậu trường. Tại đại hội năm 1968, Mặt trận đã ban hành một chương trình 12 điểm không đề cập đến chủ nghĩa xã hội, nhưng kêu gọi một Chính phủ Liên hiệp Quốc gia và bầu cử tự do, đồng thời hứa tôn trọng Phật giáo và chế độ quân chủ. Việc Souphanouvong là hoàng thân cũng như là một người cộng sản đối với nhiều người Lào dường như là một sự trấn an rằng Pathet Lào cầm quyền sẽ theo đuổi một con đường ôn hòa. Trong khu vực Pathet Lào, những người cộng sản tuân theo các chính sách ôn hòa rõ ràng, mặc dù đã có một số nỗ lực tập thể hóa nông nghiệp. Pathet Lào là những nhà cung cấp hiệu quả các dịch vụ cơ bản, bất chấp những khó khăn do bom đạn gây ra, và cũng có hiệu quả trong việc huy động các dân tộc thiểu số vùng cao. Đáng chú ý nhất là Pathet Lão phần lớn không tham nhũng. Về mặt tiêu cực, như hầu hết người Lào đều biết, các chính sách của họ phần lớn do Việt Nam kiểm soát.
===Hiệp định hòa bình===
Vào tháng 1 năm 1973, sau khi Nixon tái đắc cử, một hiệp định hòa bình được công bố giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ theo khuôn mẫu đã được thiết lập tại Geneva năm 1954, một thỏa thuận hòa bình ở Lào đã được thỏa thuận như một vấn đề phụ đối với vấn đề Việt Nam. Hai bên ở Lào đã có các cuộc thảo luận không chính thức kể từ tháng 7 trước đó, và sau khi Hoa Kỳ đồng ý, họ nhanh chóng ký một lệnh ngừng bắn và công bố Thỏa thuận về Khôi phục Hòa bình và Hòa giải Dân tộc. Các điều khoản chính là thành lập chính phủ Liên minh thứ ba, với Souvanna Phouma làm thủ tướng và 12 bộ trưởng của mỗi bên. Quốc hội, vốn từ lâu đã mất tính hợp pháp chính trị, đã được thay thế bằng Hội đồng hiệp thương gồm 42 thành viên - 16 người từ mỗi bên cộng với 10 người được đề cử đã được đồng ý. Cơ quan này, do Souphanouvong làm chủ tịch, được trao địa vị ngang hàng với chính phủ, khiến Souphanouvong thực chất là người đồng cai trị đất nước.
 
Không có đề cập đến việc Pathēt Lào từ bỏ quyền kiểm soát trên thực tế đối với khu vực của mình. Về lý thuyết, các lực lượng vũ trang của nó sẽ được hợp nhất vào quân đội quốc gia, nhưng thời gian biểu chưa bao giờ thực sự chắc chắn. Trong khi hiệp định yêu cầu Quân đội Nhân dân Việt Nam rời khỏi Lào, thì người Việt Nam không bao giờ rời đi. Các thỏa thuận này phản ánh vị thế được củng cố rộng rãi của Pathet Lào kể từ khi có chính phủ Liên hiệp thứ hai. Để nhận ra điều này, những người cực hữu đã cố gắng thực hiện một cuộc đảo chính cuối cùng ở Viêng Chăn vào tháng 8, nhưng nó nhanh chóng sụp đổ, vì sau đó nhiều người Lào nhận ra rằng việc Pathet Lào lên nắm quyền chỉ còn là vấn đề thời gian.
 
Trong suốt năm 1974 và 1975, cán cân quyền lực ở Lào thay đổi đều đặn theo hướng có lợi cho Pathet Lào khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Đông Dương. Souvanna Phouma mệt mỏi và mất tinh thần, và sau một cơn đau tim vào giữa năm 1974, ông đã dành một vài tháng để phục hồi sức khỏe ở Pháp, sau đó ông tuyên bố sẽ rút lui khỏi chính trường sau cuộc bầu cử được lên kế hoạch vào đầu năm 1976. Các lực lượng chống cộng do đó không có lãnh đạo, và cũng chia rẽ và sa lầy sâu sắc vào tham nhũng.
 
Ngược lại, Souphanouvong tự tin và là một nhà chiến lược chính trị bậc thầy, và đứng sau ông là những cán bộ có kỷ luật của đảng Nhân dân và lực lượng Pathet Lào và quân đội Nhân dân Việt Nam. Việc chấm dứt viện trợ của Mỹ cũng đồng nghĩa với việc hầu hết các lực lượng quân đội Lào không thuộc Pathet tại nước này phải giải ngũ hàng loạt. Mặt khác, Pathēt Lào tiếp tục được Việt Nam tài trợ và trang bị.
 
Vào tháng 5 năm 1974, Souphanouvong đưa ra một kế hoạch 18 điểm cho "Tái thiết quốc gia", được nhất trí thông qua - một dấu hiệu cho thấy sự thống trị ngày càng tăng của ông. Kế hoạch này hầu như không gây tranh cãi, với những hứa hẹn mới về bầu cử tự do, các quyền dân chủ và tôn giáo, cũng như các chính sách kinh tế mang tính xây dựng. Nhưng việc kiểm duyệt báo chí được đưa ra dưới danh nghĩa "đoàn kết dân tộc", khiến các lực lượng phi cộng sản gặp khó khăn hơn trong việc tổ chức chính trị để đối phó với sự tiếp quản của Pathet Lào. Vào tháng 1 năm 1975, tất cả các cuộc mít tinh và biểu tình công khai đều bị cấm. Nhận ra xu hướng của các sự kiện, các nhân vật kinh doanh và chính trị có ảnh hưởng bắt đầu chuyển tài sản của họ, và trong một số trường hợp, họ chuyển sang Thái Lan, Pháp hoặc Mỹ.
 
Năm 1975, lực lượng Pathēt Lào trên Cánh đồng Chum được hỗ trợ bởi pháo hạng nặng của Việt Nam và các đơn vị khác bắt đầu tiến về phía tây. Vào cuối tháng 4, Pathet Lào chiếm tiền đồn của chính phủ tại ngã tư Sala Phou Khoum, mở ra Đường 13 cho một cuộc tiến công của Pathet Lào về phía Muang Kassy. Đối với các phần tử Lào không theo đường lối trong chính phủ, thỏa hiệp có vẻ tốt hơn là cho phép những gì đã xảy ra ở Campuchia và Nam Việt Nam xảy ra ở Lào. Đầu hàng được cho là tốt hơn là thay đổi quyền lực bằng vũ lực.
==Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào==
 
==Tham khảo==