Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thích-ca Mâu-ni”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 137:
Ðến ngày thứ 49, Tất-đạt-đa ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách [[Bồ đề (Moraceae)|cây Bồ-đề]] khoảng 150 m về hướng đông), sắp đi khất thực, thì có hai chị em nàng Tu-Xà-Đề (Sujata), con ông trưởng làng Senani, mang bát cháo sữa (kheer) đến cúng vị Thần gốc cây để tạ ơn. Khi thấy Tất-đạt-đa đang tĩnh tọa, hai nàng đặt bát [[cháo]] sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Tất-đạt-đa thấy cơ thể khỏe mạnh lạ thường nên không đi khất thực mà xuống sông Ni-liên-thiền tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.
:Tương truyền rằng sau khi rửa bát xong, ông để cái bát bằng vàng trên dòng nước và nguyện rằng: ''"Nếu hôm nay ta được chứng quả thành [[Phật]], thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông"''. Quả nhiên cái bát nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông 80 sải tay, đến khi gặp phải một xoáy nước mạnh thì chìm xuống đáy sông, đúng nơi có 3 chiếc bát [[vàng]] của 3 vị Phật đắc đạo trước Tất-đạt-đa trong Hiền kiếp này ([[Phật Câu Lưu Tôn]], [[Phật Câu Na Hàm Mâu Ni]], [[Phật Ca Diếp]])
Sau đó, Tất-đạt-đa đi trở lên bờ, đến [[cội Bồ-đề]] ở Bồ-đề Đạo Tràng ([[Bodh Gaya]]) và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]]. Trước khi ngồi, ông thầm nghĩ làm thế nào có một tòa ngồi cho yên tĩnh, trang nghiêm. Bỗng thấy một em bé tên là Sotthiya Svastika (Cát-tường) gánh [[cỏ]] đi ngang qua đó, ông gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để làm tòa ngồi. Em bé cung kính dâng ông sáu bó cỏ sắc (kusha) mềm mại và có hương thơm. Ông xấp cỏ thành tọa cụ và bồ- đoàn, [[Padmāsana|ngồi kiết già]], lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Ni-liên-thiền.
[[Tập tin:Mara demon nat and Buddha.JPG|thumb|300px|Tranh vẽ cảnh ma vương Thiên ma (Mara) tìm cách ngăn chặn thái tử Tất-đạt-đa đạt tới giác ngộ]]
Đêm hôm đó, Tất-đạt-đa bắt đầu thực hành các pháp thiền định. Cuối cùng, ông đạt Diệt-Thọ-Tưởng định (Nirodha-samapatti), tỏa ra uy năng chiếu khắp [[Tam giới]] (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Ma vương Thiên ma (Ba-tuần - vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại) không muốn ông đắc đạo, đã quấy nhiễu bằng nhiều phương thức nhưng cuối cùng đều thất bại. Ba cô con gái của ma vương tên là Ái Dục (Tanhā), Bất Mãn (Aratī) và Tham Vọng (Ragā) hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp để quyến rũ nhưng cũng chịu thất bại.
 
Sau khi hàng phục ma vương xong, Tất-đạt-đa tiếp tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định và bắt đầu chứng đắc các đạo quả:
*Tận diệt các ''vi tế phiền não'' (Kammavasa) còn ẩn náu trong tâm làm nghiệp nhân cho ''Sinh Tử Luân Hồi'' (Samsara). Ðến canh một đêm đó, ông chứng Túc- Mạng- Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)
*Tận diệt các ''vi- tế vô- minh'' (Avidyasava). Ðến canh ba, ông chứng Thiên- Nhãn- Minh (Cutupapata-nana), biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...). Ông biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó nhìn thấu được luật [[Quan hệ nhân quả|Nhân-Quả]] và [[Luân hồi]].
*Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng Sinh Tử Luân Hồi. Ðến canh năm, ông chứng Lậu- Tận- Minh (Asavakkhaya-nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ông nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ông đã tìm ra [[Tứ diệu đế|Tứ Thánh Đế]] (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo).
[[Tập tin:Buddha2.jpg|thumb|240px|Tranh vẽ cảnh thái tử SiddhārthaTất-đạt-đa đạt tới giác ngộ]]
Theo sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm [[589 TCN]]. Ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành [[Phật toàn giác]], là bậc anuttara samma sambodhi (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) với [[Thập hiệu]]:
#'''[[Như Lai]]''' (''tathāgata''), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ [[cõi Chân như]]"; tuệ giác của Đức Phật như [[Mặt Trời]] soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối [[vô minh]].
#'''[[Ứng Cúng]]''' (''arahant''), dịch nghĩa là A La Hán, là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.