Khác biệt giữa bản sửa đổi của “S-75 Dvina”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 130:
[[File:Cam nang bia do.JPG|nhỏ|phải|256px|Cuốn tài liệu "Cách đánh B-52" (thường gọi là "Cẩm nang bìa đỏ") do Phòng Tác huấn của Binh chủng Tên lửa phòng không Việt Nam biên soạn, một tài liệu ứng dụng hữu hiệu hệ thống SAM-2 góp phần bắn rơi nhiều B-52 của không quân Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam]]
 
S-75 Dvina vốn là loại vũ khí phòng không được chế tạo để bảo vệ mục tiêu cố định là các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu dân cư lớn, các căn cứ quân sự, sở chỉ huy cố định và các yếu địa khác; vì vậy, tính chất tác chiến chủ yếu của nó là cố định và đặc điểm cấu tạo của vũ khí này cũng phù hợp với các trận địa cố định. Trận địa SA-2 cơ bản có hình lục giác đều với bánđường kính tới vài trăm mét nên dễ bị phát hiện từ trên không, sau này người Việt Nam đã bỏ kiểu bố trí đó vì lý do trên.
 
Trong chiến tranh đất đối không tại Việt Nam (1965-1972), do ưu thế gần như áp đảo của không quân Hoa Kỳ nên các đơn vị phòng không Việt Nam phải thực hiện chiến thuật cơ động và nghi binh cho tên lửa phòng không S-75 Dvina. Theo điều lệnh tác chiến của lực lượng phòng không Liên Xô (cũ), mỗi tiểu đoàn S-75 Dvina (kể cả loại S-75B Volkhov) đều cần từ 1 đến 2 trận địa dự bị trong phạm vi bán kính cơ động 5 đến 10&nbsp;km. Tại [[Việt Nam]], mỗi tiểu đoàn S-75 Dvina có từ 4 đến 6 trận địa dự bị ở phạm vi cơ động có thể lên đến hàng trăm km trên nhiều loại địa hình khác nhau. Sau mỗi trận đánh, toàn bộ khí tài được tháo dỡ, thu gom trong vòng chưa đến 1 giờ và được di chuyển ngay đến trận địa mới. Tại trận địa cũ, người ta thường để lại một bộ khí tài giả làm bằng tre và cót, được sơn phết giống như thật. Đã nhiều lần, máy bay cường kích của Hoa Kỳ đã đánh vào các trận địa giả này. Do đó, mặc dù có số lượng không lớn nhưng nhiều đơn vị S-75 Dvina của phòng không Việt Nam vẫn tránh được những đòn đánh hủy diệt của Hoa Kỳ, bảo toàn được lực lượng.<ref>Nghiêm Đình Tích. Lịch sử bộ đội tên lửa phòng không (1965-2005). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà Nội. 2005. trang 58-59.</ref>