Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Mạng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Hoán đổi vị trí Miếu hiệu lên trên Niên hiệu cho hợp nhất với các bài Wikipedia của vua Gia Long và những vị chúa Nguyễn trước ngài. |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 73:
| chữ ký =
}}
'''Minh Mạng''' ([[25 tháng 5]] năm [[1791]] – [[20 tháng 1]] năm [[1841]]) hay '''Minh Mệnh,''' là vị [[hoàng đế]] thứ hai của [[Nhà Nguyễn|triều Nguyễn]] trị vì từ năm 1820 đến khi ông qua đời, được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Thánh Tổ'''. Tuy có một số chính sách sai lầm và hạn chế, song giới sử gia đương đại vẫn đánh giá Minh Mạng là vị vua
Trong
Thời Minh Mạng, trong nước liên tục xảy ra [[bạo loạn|nội loạn]] và [[chiến tranh]]. Liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình ([[Phan Bá Vành]], [[Lê Duy Lương]], [[Nông Văn Vân]],… ở miền Bắc và [[Lê Văn Khôi]] ở miền Nam). Trong 21 năm cai trị, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, nhà vua phải sai nhiều tướng đánh dẹp rất mệt nhọc.
Dòng 81:
Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách nào, ông tiếp tục duy trì chính sách của [[Gia Long]]: Bế quan toả cảng, khước từ mọi giao lưu với [[phương Tây]], cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến [[Đại Nam]] dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật.
Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: giành lại [[Trấn Ninh]] (từng bị vua cha là [[Gia Long]] cắt cho Ai Lao), lập các phủ Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế [[Lào|Ai Lao]]; [[Chiến tranh Việt-Xiêm (1833–1834)|đánh bại Xiêm La]] để giành quyền khống chế [[Chân Lạp]], chiếm vùng [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] ([[Phnôm Pênh]] ngày nay) và đổi tên thành [[Trấn Tây Thành]]; kết quả là nước Đại Nam thời đó có lãnh thổ rộng hơn cả hiện nay. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh tốn kém đó đã làm cạn kiệt [[quốc khố]] nên nhà Nguyễn đã không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm. Ngay sau khi Minh Mạng mất,
==Thân thế==
|