Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thoại Ngọc hầu”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →đầu |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
[[Tập tin:Tượng Thoại Ngọc Hầu NS.jpg|nhỏ|phải|250px|Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]]]]
'''Thoại Ngọc hầu''' ([[chữ Hán]]: 瑞玉侯, [[1761]]
==Thân thế và sự nghiệp==
Dòng 29:
===Làm Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh===
Ở Cao Miên được ba năm, Thoại Ngọc Hầu được triệu về [[Huế]] ([[1816]]), rồi
Ở trấn Vĩnh Thanh, ông sốt sắng lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:
*[[Kênh Thoại Hà]]: khởi đào vào năm [[1818]], dài hơn 30 [[kilômét|km]], nối rạch [[Đông Xuyên]] ([[Long Xuyên]]) với ngọn Giá Khê ([[Rạch Giá]]). Đào xong được vua [[Gia Long]] đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi ([[Thoại Sơn, An Giang|Thoại Sơn]]) và tên kênh ([[Kênh Thoại Hà|Thoại Hà]]).
*[[Kênh Vĩnh Tế]]: đào theo biên giới [[Hướng Tây Nam|Tây Nam]] nối liền [[Châu Đốc]]
*Năm [[1823]], ông cho lập 5 làng trên bờ [[kênh Vĩnh Tế]] là [[Vĩnh Ngươn]], [[Vĩnh Tế, Châu Đốc|Vĩnh Tế]], [[Vĩnh Điều]], [[Vĩnh Gia, Tri Tôn|Vĩnh Gia]] và Vĩnh Thông<ref>Theo ''Địa chí An Giang'' (tập 2, tr. 242).</ref>. Liên quan đến việc mộ dân lập làng của ông, sử [[nhà Nguyễn]] có đoạn chép: ''"Án thủ Châu Đốc là Thống chế Nguyễn Văn Thụy trước mộ dân dời đến ở đất biên thùy, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân, đã hoãn nhiều năm, dân vẫn chưa trả được. Đến nay Thụy đem của nhà trả bù cho dân"'' <ref>Trích trong ''[[Đại Nam thực lục]]'', tập 2. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 584.</ref>.
*Năm [[1825]], ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn [[Angkor Borei]] ngày nay)
*Lộ Núi
Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này.
Dòng 72:
Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh khi nhận xét về vụ án oan của công thần họ Nguyễn trên Đại Việt tập chí, số 29, đã chua xót mà rằng “Đọc đoạn cuối cùng trong tiểu sử (ghi trong Đại Nam chính biên liệt truyện – người dẫn chú), chúng ta bắt đầu đau lòng trông thấy vết lọ mà kẻ nha thuộc bôi lên danh dự của Ngài.
Chúng ta bắt ngậm ngùi hồi tưởng lại công nghiệp vĩ đại của Ngài, mà khi quá cố, lại kẻ tiểu nhơn cáo gian, không được đấng chí tôn soi xét; rồi tự hỏi: “Oan hồn Ngài có ngậm tủi tự chốn tuyền đài chăng?”.
Người thì đã mất, chỉ khổ cho cháu con nơi trần gian phải ngậm đắng nuốt cay vì án oan của cha ông. Sau này, nghĩa tế của Thoại Ngọc hầu là Võ Vĩnh Lộc (Thoại Ngọc hầu không có con gái, đã nhận con nuôi là Thị Nghĩa. Sau Nghĩa lấy Lộc), vì mối căm hồn chất chứa với triều đình đã cùng vợ mình tham gia vụ biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi. Lộc làm Hậu quân dưới trướng Khôi. Dĩ nhiên là sau này vụ nổi loạn của Lê Văn Khôi bị dẹp. Lộc và vợ phải chịu tội làm loạn.
Dòng 91:
==Chánh thất==
'''Châu Thị Tế''' ([[1766]]
Bà sinh ngày Mùi, [[tháng tư|tháng 4]], năm [[Bính Tuất]] ([[1766]])<ref>Ngày sinh này căn cứ theo Nguyễn Văn Hầu. [[Nguyễn Q. Thắng]]-Nguyễn Bá Thế ghi bà sinh ngày Thìn.</ref> tại cù lao Dài (cù lao Năm Thôn), thuộc xã Qưới Thiện, huyện [[Vũng Liêm]], tỉnh [[Vĩnh Long]].
Dòng 120:
:''Cỏ cây thêm sắc ơn vua thắm nhuần...''
Ngoài Châu Thị Tế, Nguyễn Văn Thoại còn có một người vợ thứ tên là Trương Thị Miệt (?
==Người Việt ghi công==
Dòng 144:
Đền và khu mộ (gồm mộ: Thoại Ngọc Hầu, Châu Thị Tế và Trương Thị Thiệt), gọi chung là ''Sơn lăng'', tọa lạc ở chân [[núi Sam]] (Châu Đốc), đã được liệt vào hạng ''di tích lịch sử cấp quốc gia'' vào ngày 4 [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1997]].
Ngày 25 [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[2009]] tại thị xã [[Châu Đốc]], Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh [[An Giang]] và UBND [[đà Nẵng|thành phố Đà Nẵng]] đã phối hợp tổ chức cuộc "Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, nhân kỷ niệm 180 năm ngày mất" (mùng 6 [[tháng sáu|tháng 6]] âl năm [[1828]]
Kết quả, các tham luận đều khẳng định Thoại Ngọc Hầu có công lao to lớn đối với vùng đất [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]]. Ông là người có tâm và có tầm với cái nhìn chiến lược, có ý chí kiên định và là người tài đức vẹn toàn. Ngoài vai trò là một danh tướng, nhà doanh điền, nhà quản lý hành chánh, nhà văn hóa và ngoại giao giỏi; ông còn là một người con luôn nặng tình với nhân dân, với quê hương, với vợ con và bằng hữu (như việc không muốn đối đầu với [[Trần Quang Diệu]] trong trận chiến [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] năm [[1801]]) <ref>Theo ''Kỷ yếu'', tr. 249.</ref>.
Dòng 169:
==Sách tham khảo chính==
*[[Nguyễn Văn Hầu]], ''Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang''. Nhà xuất bản Hương Sen, [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], sách không ghi năm xuất bản.
*[[Nguyễn Q. Thắng]]
*Nhiều tác giả, ''Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu'' do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh [[An Giang]] và UBND [[đà Nẵng|thành phố Đà Nẵng]] phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009. Trong bài viết tắt là "kỷ yếu".
*Nhiều người soạn, ''Địa chí An Giang'' (tập 2) do UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn & ấn hành năm 2007.
*Trần Đình Ba, ''Oan án công thần Thoại Ngọc hầu'', [http://baophapluat.vn/rubic-cuoc-song/oan-an-cong-than-thoai-ngoc-hau-297904.html http://baophapluat.vn/rubic–cuoc–song/oan–an–cong–than–thoai–ngoc–hau–297904.html]
==Chú thích==
|