Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giới tính xã hội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Yui 2000 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 142:
==== Não bộ con người ====
[[Tập tin:Brain_chrischan.jpg|nhỏ|[[Não người|Não bộ con người]]]]
"Đại não của đàn ông đã được chứng minh là có kích thước lớn hơn của phụ nữ khoảng 8 - 10% (Filipek và cộng sự, 1994; Nopoulos và cộng sự, 2000; Passe và cộng sự, 1997a,b; Rabinowicz và cộng sự, 1999; Witelson và cộng sự, 1995)".<ref name="Haier">{{Chú thích tạp chí|last=Haier|first=RJ|last2=Jung|first2=RE|last3=Yeo|first3=RA|last4=Head|first4=K|last5=Alkire|first5=MT|year=2005|title=The neuroanatomy of general intelligence: Sex matters|journal=NeuroImage|volume=25|issue=1|pages=320–327|doi=10.1016/j.neuroimage.2004.11.019|pmid=15734366}} Page 324 for cerebrum difference of 8–10%.</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|last=McDaniel, Michael A.|year=2005|title=Big-Brained People are Smarter: A Meta-Analysis of the Relationship between in Vivo Brain Volume and Intelligence|url=http://www.people.vcu.edu/~mamcdani/Big-Brained%20article.pdf|journal=Intelligence|volume=33|issue=4|pages=337–346|doi=10.1016/j.intell.2004.11.005}}</ref> Tuy nhiên, những khác biệt về thành phần cấu tạo và hệ thống thần kinh của não bộ giữa hai giới mới thật sự đáng  lưu tâm. [[Richard J. Haier]]<nowiki/> và các đồng nghiệp từ 2 trường đại học [[Đại học California tại Irvine|California (Irvine)]] và [[Đại học New Mexico|New Mexico]], thông qua phương pháp [[Lập bản đồ não|Lập Bản Đồ Não Bộ]], đã phát hiện đàn ông có nhiều [[chất xám]] - thành phần có liên quan đến [[trí thông minh]] tổng quát - hơn phụ nữ, và phụ nữ có nhiều [[chất trắng]] - thành phần liên quan đến trí thông minh - hơn đàn ông. Ngoài ra, tỉ lệ giữa chất xám và chất trắng của đàn ông cũng cao hơn phụ nữ 4%.<ref name="Haier" />
 
Chất xám có nhiệm vụ xử lý thông tin, trong khi chất trắng gồm các cầu nối liên kết các trung tâm xử lý thông tin lại với nhau. Các khác biệt còn lại giữa não bộ của nam giới và của nữ giới tuy có thể nhận thấy nhưng không đáng kể. Nguyên nhân dẫn đến những sự không tương đồng kể trên phần lớn là từ hoạt động của hormone, đặc biệt là từ nhiễm sắc thể giới tình Y và quá trình phân hóa giới tính. Tuy nhiên, các khác biệt xuất phát trực tiếp từ hoạt động của gen cũng đồng thời được ghi nhận.{{quote|Sự lưỡng hình giới tính ở mức độ [[biểu hiện gen]] trong [[mô]] não được quan sát bởi [[Nghiên cứu định lượng|hệ thống định lượng]] theo [[thời gian thực]] [[Phản ứng chuỗi polymerase|PCR]].Trong đó, quá trình [[phiên mã]] nên protein PCDH11X từ gen PCDH11X ở nữ diễn ra vượt mức cần thiết, và lượng dư có thể lên đến gấp 2 lần. Cặp protein PCDH11X và PCDH11Y, tạo thành từ cặp gen tương ứng PCDH11X và PCDH11Y, được cho rằng có vai trò thiết yếu trong việc phát triển các khoang và đốt ở cơ thể động thực vật cũng như ảnh hưởng đến chức năng của hệ thần kinh trung ương.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Avinash M Veerappa, Marita Saldanha, Prakash Padakannaya, Nallur B Ramachandra|year=2013|title=Genome-wide copy number scan identifies disruption of PCDH11X in developmental dyslexia|url=https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1002/ajmg.b.32199|journal=American Journal of Medical Genetics|volume=162|issue=8|pages=889–897|doi=10.1002/ajmg.b.32199}}</ref> Tuy nhiên, cặp gen PCDH11X và PCDH11Y lại có phản ứng khác biệt khi tiếp xúc với axit retinoic - hợp chất có liên quan đến sự phát triển của phôi thai. Trong khi axit retinoic kích thích sự hoạt động của gen PCDH11Y, hoạt động của gen PCDH11X lại bị hạn chế bởi axit này.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.economist.com/science-and-technology/2001/04/26/the-genetics-of-lateralisation?__cf_chl_captcha_tk__=3139a8a9b67c2f75d27cfe138bd5bf59c49f5b6a-1618164121-0-AaMUtJo7aeq-gvOnf-RBu-j9U2NvE87vQVqrCtlhDRBcJbvGWHf-kVQj2u94FlKcbflrzN6dCsiZHFyot-7yhmhqOIWrLfZykxlx2-_n179s2GffUu4u0Vzbw9o0Pgxf79qTVeWnpOt_yKCySTAqW1_NNAhru0TUrJ8xDH2XQOp8ST3plp6s2hSEzBL-aCou66mt23U7SjLY4D9NXvaSuCtmUC0D1RfECEczGaDWhJWhUIpsKqah6XG08MdYEM9-AC1e45ZHxEH46xRwabCknoc7xycE-2ly8cVFNX8tmWIC2LocxICiuFYeUsUh5SyxKD7-SQ4v6gQM82m1vHZ1Y6synoWp1sIJTkfZjaqUYalD4dWjTIskN1yLdTJcujPRXmwSVnpQAYmEiFWkh4OAsJU-FaX4PYKAmXAdV4nDRt0GooHwZicSMV74s2TsxQrTQR7FOhgxGJCvXntvOMmh2x-98Si12ZmHlOSLrdvpxh9L9bzN3EYkr_8aa-4V6rhjFiAkSlhMk5ezXg3Oq02NmzrVUk-ElYuEw1zWECp3IOhIEgbWF5AEzHAdliYXuUKqHV3TsL0SQ6bGsxz1UW1IXWHD6nwuBLnCQTzzPnUHy2oRjt46lnGHbDNGC-gpCiKD8KW5kYMP9lmw0kfny62g4NlYZPamo2_z11Yz6qsYLM8yndLxJKhOvwZsQnXai76-QQ|tựa đề=The genetics of lateralisation|nhà xuất bản=The Economist|ngày truy cập=1 January 2021}}</ref> Các phát hiện trên được liên hệ với các [[tính trạng]] mang tính lưỡng hình giới tính ở não bộ con người. Thú vị thay, cặp gen PCDH11X và PCDH11Y chỉ tồn tại ở người tinh khôn do một phần của gen PCDH11X (nằm trên [[Di truyền liên kết giới tính|nhiễm sắc thể giới tính X]], có ở cả hai giới của con người và của tinh tinh - họ hàng gần nhất của con người), đã [[Gen nhảy|chuyển vị]] sắc thể giới tính Y sau khi tinh tinh và con người phân thành hai loài khác nhau từ cùng một loài tổ tiên.|<ref>{{cite journal|pmid=16425037|year=2006|last1=Lopes|first1=AM|last2=Ross|first2=N|last3=Close|first3=J|last4=Dagnall|first4=A|last5=Amorim|first5=A|last6=Crow|first6=TJ|title=Inactivation status of PCDH11X: Sexual dimorphisms in gene expression levels in brain|volume=119|issue=3|pages=267–275|doi=10.1007/s00439-006-0134-0|journal=Human Genetics|s2cid=19323646}}</ref>}}