Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếng Nùng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 40:
=== Lạng Sơn ===
*''Nùng Phản Slình'' được nói ở huyện Cao Lộc, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn và huyện Yên Thế, Lạng Giang của tỉnh Bắc Giang. ''Phản/Fản Slình'' là một từ tiếng Nùng tương đương với ''Wancheng'' (萬承) trong tiếng Hán (Vạn
*''Nùng Cháo'' được nói ở huyện Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, huyện Nà Rì tỉnh Bắc Cạn và huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Phương ngữ Nùng Cháo tương đồng với Tráng Long Châu của William J. Gedney. Nùng Cháo cũng gần như tương đồng với ngôn ngữ được Lý Phương Quế (Li Fang Kuei) gọi là ''Longzhou'' (Long Châu) nhiều năm về trước. Trong tác phẩm ''A Handbook of Comparative Tai (1977)'' của ông, ''Longzhou'' là một ví dụ về ngôn ngữ Tai Trung Tâm.<ref name="TTTYYYUUU" /> Nùng Cháo ở Việt Nam khác biệt chút ít về thanh điệu so với Longzhou của Lý Phương Quế tại Quảng Tây, Trung Quốc, nhưng có thể khẳng định rằng chúng là cùng một ngôn ngữ xét về tất cả các phương diện khác.<ref name="TTTYYYUUU" />
*''Nùng Inh'' được nói ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Bình Gia, Văn Quang tỉnh Lạng Sơn. Phương ngữ Nùng Inh tương đồng với Nùng Phía Tây của William J. Gedney ở Mường Khương, tỉnh Lao Cai.
=== Lào Cai ===
*''Nùng Dín'' được nói ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang và Bắc Hà, Mường Khương thuộc tỉnh Lào Cai.<ref name="BBPPKK" /> Nùng Dín cùng các phương ngữ Nùng ở Vân Nam Trung Quốc được coi là Nùng Phía Tây; đây là những phương ngữ Nùng nằm giáp ranh giữa nhóm Tai Trung Tâm và Tai Tây Nam.<ref name="BBPPKK">{{chú thích sách | authorlink = |authors=Luận án tiến sĩ ngữ văn Viện ngôn ngữ học & Lê Văn Trường| title = Vị trí tiếng Nùng Dín trong quan hệ với các phương ngữ Nùng và Tày ở Việt Nam | publisher = | year = 2004| location = Hà Nội | pages =11 | url = | doi = | id = | isbn = }}</ref>
|