Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Man Thiện”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Hồi sửa về bản sửa đổi 65090455 của B the Debonaire (talk)
Thẻ: Twinkle Lùi sửa
Dòng 12:
}}</ref>
 
Theo ''Việt Nam danh nhân tự điển'' của Nguyễn Huyền Anh thì bà Thiện (cháu ngoại của [[Hùng Vương|Vua Hùng]]) có tên thật là '''Trần Thị Đoan''', vợ Hùngcủa Địnhquan lạc [[Mêtướng Linh]],Hùng Định một hiền sĩ, văn võ toàn tài, được cử làm quan Lạc tướng đất [[Mê Linh]]. KhiSau ôngkhi Trưngchồng Định về đất Cổ Lai (nay là làng Hạ Lôimất, nuôi chí Linh)lớn ẩnnên thân dạy học đã gặpnuôi dạy Trầnhai Thị Đoancon, conđào gáiluyện củahọ cụthành Trầnngười Minh (cũngtài thao cháulược, chắtyêu bên ngoại của vua Hùngnước, mộttrọng giađạo đìnhnghĩa. phongNăm lưu[[Trưng lệchTrắc]] tộc19 caotuổi, môn). Ônggả đãcon xingái đínhcho ướcThi cầu hôn cùng bàSách.
 
Bà là người tổ chức cuộc khởi nghĩa [[Hai Bà Trưng]] từ đầu. Khi lực lượng đủ mạnh bà mới giao quyền lãnh đạo lại cho con rể ([[Thi Sách]]) và con gái. Nhưng khôngvào maynăm 39, Thi Sách bị [[Tô Định]] giết hại.
Hai ông bà tuổi đã cao nhưng vẫn hiếm muộn đường con cái. Một đêm, trong giấc chiêm bao, bà Đoan thấy mình được Tiên ban cho một cành mẫu đơn có hai bông hoa trắng muốt. Sau đó, bà mang thai và sinh đôi được hai cô con gái vào ngày 1 tháng 8 năm [[Giáp Tuất]] (năm 14 SCN).
 
Mùa xuân năm 40, [[Hai Bà Trưng]] đánh tan quân [[Nhà Hán|Hán]], xưng Vương đóng đô ở Mê Linh, tôn mẹ là Hoàng hậu Man Thiện. Không ở kinh đô, bà về quê làng Nam Nguyễn (nay thuộc Cam Thượng, [[Ba Vì (định hướng)|Ba Vì]]) lập đồn trấn giữ.<ref name="ht"/> Khi nghĩa quân bị Mã Viện lấn át, bà đã về An Hát (sau đổi thành Phúc Lộc, huyện [[Phúc Thọ]], [[Hà Nội]] ngày nay) để chiêu mộ thêm binh sĩ. Trước sự tấn công dữ dội của quân giặc, để không bị địch bắt, bà trầm mình ở dòng [[sông Hồng]] vào ngày 10 tháng Chạp năm [[Quý Mão]] ([[43]]).
Lớn lên trong gia đình Lạc tướng, [[Trưng Trắc]] và [[Trưng Nhị]] sớm có tư chất thông minh, lại được cha truyền dạy nhiều về võ nghệ và kiến thức thời ấy. Sau khi chồng mất, nuôi chí lớn nên bà đã tiếp tục nuôi dạy hai con, đào luyện họ thành người có tài thao lược, yêu nước, trọng đạo nghĩa. Hay tin có ông Đỗ Năng Tế và bà Tạ Cẩn Nương ở làng [[Khánh Hợp]] (nay là xã [[Tam Hiệp]], huyện [[Phúc Thọ]], [[Hà Nội]]) là người hiền tài, giỏi việc quân, bà liền mời về dạy dỗ cho hai con. Lớn lên, Hai Bà trở thành người giỏi võ công, văn trị. Năm [[Trưng Trắc]] 19 tuổi, bà Đoan gả con gái cho [[Thi Sách]].
 
Bà là người tổ chức cuộc khởi nghĩa [[Hai Bà Trưng]] từ đầu. Khi lực lượng đủ mạnh bà mới giao quyền lãnh đạo lại cho con rể ([[Thi Sách]]) và con gái. Nhưng không may, Thi Sách bị [[Tô Định]] giết hại.
 
Trước hành động kiên quyết và ý chí phục thù của con gái, bà Man Thiện càng tin tưởng và gấp rút chuẩn bị để ủng hộ sự nghiệp cứu nước của con gái. Dựa vào lòng tôn kính và hoài vọng của nhân dân đối với các vua Hùng và uy tín của vị Lạc tướng đất [[Mê Linh]], bà Man Thiện đã đi khắp nơi, từ vùng núi [[Ba Vì]], [[Hưng Hoá]], [[Tam Đảo]], [[Tiên Du]] đến vùng biển [[Quảng Ninh]], [[Hải Phòng]] để liên kết với các quan lang, thủ lĩnh địa phương chiêu mộ anh hùng hào kiệt, tuyển chọn dân binh thêm dày lực lượng. Mặt khác, bà còn quan tâm đến việc đẩy mạnh canh nông, tích tụ lương thảo, bí mật luyện tập binh mã chờ ngày khởi nghĩa.
 
Mùa xuân năm 40, [[Hai Bà Trưng]] dựng cờ khởi nghĩa. Theo thần tích, bà Man Thiện chỉ huy 7 vạn quân bản bộ, là một lực lượng lớn đóng góp vào đội quân của Hai Bà. Sau khi [[Hai Bà Trưng]] đánh tan quân [[Nhà Hán|Hán]], xưng Vương đóng đô ở Mê Linh, Man Thiện được tôn là Man Hoàng hậu. Không ở kinh đô, bà về quê làng Nam Nguyễn (nay thuộc Cam Thượng, [[Ba Vì (định hướng)|Ba Vì]], [[Hà Nội]]) lập đồn trấn giữ làm chỗ dựa cho hai con.<ref name="ht"/>
 
Đầu năm [[Nhâm Dần]] (năm [[42]]), vua [[Đông Hán]] cử tên tướng [[Mã Viện]] đem quân sang xâm lược nước ta một lần nữa. Lúc đó, tuy tuổi đã già, bà Man Thiện vẫn dũng cảm dẫn một cánh quân xung trận.
 
Khi nghĩa quân bị Mã Viện lấn át, bà đã về An Hát (sau đổi thành Phúc Lộc, huyện [[Phúc Thọ]], [[Hà Nội]] ngày nay) để chiêu mộ thêm binh sĩ. Trước sự tấn công dữ dội của quân giặc, để không bị địch bắt, bà trầm mình ở dòng [[sông Hồng]] vào ngày 10 tháng Chạp năm [[Quý Mão]] ([[43]]).
 
==Đền thờ và lăng mộ==