Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cơ học lượng tử”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 94:
:<math>\sigma_A \sigma_B \geq \frac{1}{2}\left|\langle[A,B]\rangle \right|.</math>
Một hệ quả khác của hệ thức giao hoán tử chính tắc là các toán tử vị trí và xung lượng là các [[biến đổi Fourier]] của nhau, do vậy sự mô tả một đối tượng theo xung lượng của nó là một biến đổi Fourier của mô tả theo vị trí của nó. Thực tế là sự phụ thuộc vào xung lượng là biến đổi Fourier của sự phụ thuộc vào vị trí có nghĩa rằng toán tử xung lượng tương đương (đúng đến số hạng <math>i/\hbar</math>) để lấy đạo hàm theo vị trí, do trong giải tích Fourier phép toán vi phân tương ứng với phép nhân trong không gian đối ngẫu. Điều này giải thích tại sao trong các phương trình lượng tử trong không gian vị trí, xung lượng <math> p_i</math> được thay thế bởi <math>-i \hbar \frac {\partial}{\partial x}</math>, và đặc biệt trong [[phương trình Schrödinger|phương trình Schrödinger phi tương đối tính trong không gian vị trí]] số hạng bình phương xung lượng được thay thế bằng phép nhân với toán tử Laplace <math>-\hbar^2</math>.<ref name = "Cohen-Tannoudji"/>
Lý thuyết trường lượng tử cho [[tương tác mạnh|lực tương tác mạnh]] và [[tương tác yếu|lực tương tác yếu]] đã được phát triển và gọi là [[thuyết sắc động lực học lượng tử|sắc động lực học lượng tử]]. Lý thuyết mô tả tương tác của các hạt [[hạ hạt nhân]] như là các [[quark]] và [[gluon]]. Lực tương tác yếu và lực điện từ đã được thống nhất và lý thuyết lượng tử mô tả hai lực đó được gọi là [[lý thuyết điện-yếu]].
|