Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Anglesit”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎top: Cập nhật danh pháp theo TCVN, GF, replaced: bazơ → base, oxy hóa → oxi hóa (2) using AWB
→‎top: Cập nhật danh pháp theo TCVN, GF, replaced: sulfua → sulfide using AWB
Dòng 36:
}}
 
'''Anglesit''' là một khoáng chất của chì sunfat với các công thức hóa học '''PbSO<sub>4</sub>'''. Nó như là một sản phẩm oxi hóa của quặng chì sulfuasulfide, [[galena]]. Anglesit xuất hiện dưới dạng [[hệ tinh thể trực thoi]] và các khối đất, đồng thời có [[barit]] và [[Celestin (khoáng vật)|celestin]]. Nó chứa 74% chì theo khối lượng và do đó có tỷ lệ trọng lực cao là 6,3. Anglesit có màu trắng hoặc xám có vệt màu vàng nhạt. Nó có thể là màu xám đậm nếu không tinh khiết.
 
Lần đầu tiên được công nhận là một loài khoáng vật bởi [[William Withering]] năm 1783, người đã khám phá ra nó trong mỏ đồng Parys ở [[Anglesey]]; cái tên anglesit bắt nguồn từ tên địa phương này đã được [[FS Beudant|F. S. Beudant]] đưa ra vào năm 1832. Các tinh thể từ Anglesey, vốn đã từng được tìm thấy nhiều trên một mỏ [[limonit]], có kích thước nhỏ, thường bị chặn bởi bốn mặt của một lăng kính và bốn mặt của mái vòm; chúng có màu nâu nhạt màu do vết nhầy của limonit. Tinh thể từ một số địa điểm khác, đặc biệt là từ Monteponi ở [[Sardegna|Sardinia]], đều trong suốt và không màu, có bóng mờ kịt và thường được thay đổi bởi nhiều bề mặt tươi sáng. Sự đa dạng của các kết hợp và thói quen được trình bày bởi các tinh thể là rất rộng, gần 200 hình thức khác nhau được hình dung bởi V. von Lang trong chuyên khảo của ông về loài; không đo được các góc độ tinh thể thường khó giải mã. Có sự khác biệt rõ rệt song song với mặt lăng trụ (110) và mặt phẳng base (001), nhưng chúng không phát triển tốt như trong các khoáng vật vô định hình barit và celestit.<ref name="EB1911">{{EB1911|inline=y|wstitle=Anglesite|volume=2|page=10}}</ref>