Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dịch đậu mùa Nhật Bản 735–737”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
Ngoài ra, vào năm 736, một nhóm quan chức chính phủ Nhật Bản đã đi qua miền bắc Kyushu trong khi dịch bệnh đang gia tăng. Khi các thành viên trong nhóm bị ốm và qua đời, nhóm từ bỏ nhiệm vụ đặt chân lên bán đảo Triều Tiên. Nhóm quan chức còn lại trở về thủ đô, vô tình reo rắc bệnh đậu mùa sang miền đông Nhật Bản và vùng [[Nara (thành phố)|Nara]]. <ref name="farris57">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|page=57}}</ref> Căn bệnh này tiếp tục hoành hành Nhật Bản vào năm 737. Một biểu hiện minh chứng tác động lớn của đại dịch là vào tháng 8 năm 737, quan chức đã ban bố lệnh miễn thuế cho toàn bộ Nhật Bản. <ref name="farris59">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|page=59}}</ref>
 
Dựa trên các báo cáo, tỷ lệ tử vong ở người trưởng thành đối với dịch đậu mùa 735–737 được ước tính là 25–35% toàn bộ dân số Nhật Bản, một số khu vực có tỷ lệ cao hơn nhiều. <ref name="farris65to66">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|pages=65–66}}</ref> Tất cả các tầng lớp trong xã hội đều bị ảnh hưởng. Nhiều quý tộc trong triều đình qua đời vì bệnh đậu mùa vào năm 737, gồm cả bốn anh em của [[gia tộc Fujiwara]] quyền lực: [[Fujiwara no Muchimaro]] (680–737), [[Fujiwara no Fusasaki]] (681–737), [[Fujiwara no Umakai]] (694–737) và [[Fujiwara no Maro|Fujiwara không Maro]] (695–737). Việc họ đột ngột qua đời tạo điều kiện cho đối thủ [[Tachibana no Moroe]] thăng tiến nhanh chóng, nắm giữ chức vọng cao trong triều đình của [[Thiên hoàng Shōmu]] . <ref name="farris59">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|page=59}}<cite class="citation book cs1" data-ve-ignore="true">Farris, William Wayne (1985). ''Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900''. Harvard University Asia Center. p.&nbsp;59. [[ISBN]]&nbsp;[[Special:BookSources/9780674690059|<bdi>9780674690059</bdi>]].</cite></ref>
 
Dịch bệnh không chỉ cướp đi sinh mạng một bộ phận lớn dân số, mà nó còn gây ra sự phân tán, di cư và mất cân bằng lao động đáng kể trên khắp lãnh thổ Nhật Bản.Cây dựng và trồng trọt, đặc biệt là trồng lúa, bị ảnh hưởng nặng nề. <ref name="mmedical">{{Chú thích web|url=https://www.mitchmedical.us/human-disease/diseases-of-the-premodern-period-in-japan.html|tựa đề=Diseases of the Premodern Period in Japan|ngày truy cập=2018-11-10}}</ref>
Dòng 17:
Ngoài việc miễn giảm thuế, các quý tộc Nhật Bản đã có những hành động chưa từng có tiền lệ khác để đối phó với ảnh hưởng của dịch bệnh nhằm ngăn chặn tình trạng di cư dân số trên diện rộng và phục hồi các cụm nông nghiệp. Ví dụ, vài năm sau khi đại dịch đậu mùa bùng phát, nhà lãnh đạo Nhật Bản đã cố gắng kích thích năng suất nông nghiệp bằng cách trao quyền sở hữu đất tư nhân cho những người sẵn sàng làm việc trên đất nông nghiệp. <ref name="farris69">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|page=69}}</ref>
 
Cũng trong khoảng thời gian này, Thiên hoàng Shōmu cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về thảm kịch kinh hoàng này, đã dựa vào Phật giáo để thay đổi toàn cục đất nước. Ông ủy thác xây dựng ngôi chùa lớn [[Tōdai-ji]] và [[đại tượng Phật|Daibutsu]] tại ngôi chùa Tōdai-ji, đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng các ngôi đền của tỉnh ({{Nihongo|[[Provincial temple|kokubunji]]|国分寺}}, tượng và các công trình tôn giáo trên khắp đất nước. <ref name="hopkins107">{{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/greatestkillersm0000hopk/page/107|title=The Greatest Killer: Smallpox in History|last=Hopkins|first=Donald R.|publisher=University of Chicago Press|year=2002|isbn=9780226351681|page=[https://archive.org/details/greatestkillersm0000hopk/page/107 107]}}<cite class="citation book cs1" data-ve-ignore="true" id="CITEREFHopkins2002">Hopkins, Donald R. (2002). [[iarchive:greatestkillersm0000hopk/page/107|''The Greatest Killer: Smallpox in History'']]. University of Chicago Press. p.&nbsp;[[iarchive:greatestkillersm0000hopk/page/107|107]]. [[ISBN]]&nbsp;[[Special:BookSources/9780226351681|<bdi>9780226351681</bdi>]].</cite></ref> <ref name="farris68">{{Chú thích sách|title=Population, Disease, and Land in Early Japan, 645–900|last=Farris|first=William Wayne|publisher=Harvard University Asia Center|year=1985|isbn=9780674690059|page=68}}</ref> Chỉ riêng chi phí để xây Daibutsu đã khiến đất nước gần như bị phá sản. <ref name="bamforth2">{{citation|last=Bamforth|first=Chris|title=The capital delights of Nara|newspaper=[[The Japan Times]]|date=May 26, 2006|url=https://www.japantimes.co.jp/life/2006/05/26/travel/the-capital-delights-of-nara/#.W-emJuKIaSo}}</ref>
 
Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục trải qua dịch bệnh đậu mùa. Nhưng đến đầu thiên niên kỷ thứ 2, bệnh đậu mùa đã trở thành [[bệnh đặc hữu]] (''endemic'') của người Nhật Bản và do đó hạn chế thiệt hại hơn khi dịch bệnh bùng phát. <ref name="jannetta68to69">{{Chú thích sách|title=Epidemics and Mortality in Early Modern Japan|last=Jannetta|first=Ann Bowman|publisher=Princeton University Press|year=2014|isbn=9780691609935|pages=68–69}}</ref>