Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Cao Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dung005 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 158:
| học trường = *[[Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội|Trường Bưởi]]
*Trường Sĩ quan Trừ bị [[Nam Định]]
*Trường Phi hành (École Pilot-agePilotage) MarrakeckMarrakech, [[Maroc|Marốc]]
| cha = Nguyễn Cao Hiếu
| mẹ =
Dòng 193:
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]], ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/600.094. Được theo học khóa 1 Lê Lợi tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường, ông được phân bổ về một đơn vị Bộ binh làm Trung đội trưởng, đồn trú tại [[châu thổ sông Hồng]]. Tháng 12 cùng năm, ông trúng tuyển vào Quân chủng Không quân tại Hà Nội và được đi du học lớp Huấn luyện Phi hành Vận tải cơ DC.3 ''(C.47)''. Tiếp đến, ông được huấn luyện trên loại phi cơ T.6 tại trường Phi hành ''(École Pilot–agePilotage)'' MarrakeckMarrakech ở Vương quốc [[Maroc]], Bắc Phi ''(thuộc địa của Pháp)'' trong thời gian 9 tháng. Năm 1953, chuyển đến căn cứ Không quân Vord, miền nam Thủ đô [[Paris]], Pháp, ông được huấn luyện tiếp trên một loại máy bay 2 động cơ M.A.315 ''(Marcel Dassaut)'' để học bay trời mù sương. Sau đó qua [[Algérie]] thụ huấn về phi cơ oanh tạc. Sau [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], ông ở lại tham gia [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], trở thành một trong những phi công và sĩ quan chỉ huy đầu tiên của [[Không lực Việt Nam Cộng hòa]].
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===