Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà nước kiến tạo phát triển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 11:
Chính phủ trong nhà nước kiến tạo phát triển chủ động trong việc đầu tư và huy động vốn vào các lĩnh vực công nghiệp tiềm năng mà có [[hiệu ứng lan tỏa]] mạnh đối với xã hội. Sự hợp tác giữa nhà nước và các nhà đầu tư công nghiệp là cực kỳ quan trọng để giữ vững nền kinh tế vĩ mô. Theo ''Getting the Price Wrong'' của [[Alice Amsden]], sự can thiệp của nhà nước trong hệ thống thị trường như là sự giúp đỡ của tiền trợ cấp chính phủ để nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của công ty, điều tiết tỷ giá hối đoái, điều chỉnh mức tiền công và sự lôi kéo lạm phát để giảm thiểu chi phí sản xuất cho doanh nghiệp làm tăng trưởng mạnh, thường được thấy nhiều nhất trong các nước [[công nghiệp hóa chậm]] và những nước phát triển sớm.<ref name="Amsden"/>
 
Để thực hiện các chức năng kiến tạo phát triển, nhà nước phải có bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có tính hợp pháp cao, được pháp luật cho phép và có sự đồng thuận, ủng hộ xã hội rộng rãi; đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều được giao nhiệm vụ rõ ràng. Việc đánh giá tổ chức, cán bộ, công chức căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ theo những tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm soát thực thi công vụ ngày càng hoàn thiện. Người đứng đầu cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và được trao quyền quyết định tương ứng về tổ chức cán bộ. Nhà nước còn phải có những nhà lãnh đạo và đội ngũ hoạch định chiến lược giỏi, tận tâm; có quyết tâm chính trị cao nhất đối với sự phát triển của đất nước, đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân và trao cho họ những quyền quyết định tương đối. Bộ máy lãnh đạo có quyền độc lập tương đối trong việc theo đuổi các lợi ích quốc gia, hòa cùng các mối quan hệ xã hội và có mối liên hệ mật thiết với xã hội, có khả năng và dũng khí vượt qua những lợi ích cục bộ.<ref name="lyluan">[http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/1914-nha-nuoc-kien-tao.html Nhà nước kiến tạo], Tạp chí Lý luận Chính trị, 16 Tháng 3 2017</ref> Trong trường hợp của [[Nhật Bản]], quyền sở hữu doanh nghiệp rất ít, nhưng lĩnh vực tư nhân được chỉ rất dẫn khắt khe và bị giới hạn bởi những người cơ quan chính phủ có quyền lực. Những người này không được bầu cử chính thức và do đó sự ảnh hưởng của các tập đoàn và các nhóm lợi ích tới họ ít hơn trong quá trình xung đột. Sự xung đột trong vấn đề này là Bộ chính phủ có thể tự do quy hoạch kinh tế và có tầm nhìn lâu dài mà không có tập đoàn hay cá nhân nào trong ngắn hạn có thể phá vỡ được chính sách kinh tế của Bộ.
 
==Đông Á và Đông Nam Á==
Dòng 22:
Nói một cách cụ thể, điều làm ra chính phủ kiến tạo là chính phủ phải có một bộ máy tổ chức chặt chẽ và có quyền lực đạt được mục tiêu nó mong muốn.<ref>Chang, Ha-Joon. 1999. "The Economic Theory of the Developmental State." Pp. 182-199 in Meredith Woo-Cumings (ed.), ''The Developmental State.'' Ithaca, NY: Cornall University Press.</ref><ref>Cumings, Bruce. 1999. "Webs with No Spiders, Spiders with No Webs: The Genealogy of the Developmental State." Pp. 61-92 in Meredith Woo-Cummings (ed.), ''The Developmental State.'' Ithaca, NY: Cornall University Press.</ref><ref name=johnson1982>Johnson, Chalmers. 1982. ''MITI and the Japanese Miracle.'' Stanford, Calif.: Stanford University Press.</ref><ref>Pempel, T.J. 1999. "The Developmental Regime in a Changing World Economy." Pp. 137-181 in Meredith Woo-Cummings (ed.), ''The Developmental State.'' Ithaca, NY: Cornall University Press.</ref> Phải có một nhà nước có khả năng lãnh đạo nền kinh tế lâu dài và tổ chức một cách hiệu quả và có lý, cũng như quyền lực hỗ trợ chính sách kinh tế dài hạn. Tất cả những điều này đều quan trọng bởi vì nhà nước phải có khả năng chịu được sự yêu cầu bên ngoài của các [[công ty đa quốc gia]] để làm việc ngắn hạn với họ, cũng như vượt qua được sự kháng cự bên trong từ các nhóm có uy tín cố gắng bảo vệ những lợi ích ngắn hạn này, và điều chỉnh sự tranh chấp bên trong quốc gia liên quan đến ai sẽ là người có lợi nhiều nhất từ dự án phát triển này. Tại các nước Đông Á, nhà nước kiến tạo phát triển được lãnh đạo bởi một nhóm nhỏ quan chức tinh hoa được tuyển dụng từ những tài năng quản lý tốt nhất, những người đã đưa ra những chính sách công nghiệp hóa. Nhóm lãnh đạo này ban hành và thực hiện những chính sách công nghiệp không thay thế thị trường mà hợp lý hóa thị trường trong dài hạn với điều kiện nền chính trị cho phép giới tinh hoa ban hành và thực thi chính sách của họ.<ref>The Asian Developmental State, The Asian Developmental State: Ideas and Debates, pages 1-25, Yin-wah Chu, Palgrave Macmillan, New York</ref>
===Nhật Bản===
Nhật Bản là trường hợp được nghiên cứu đầu tiên bởi [[Chalmers Johnson]] và là cơ sở chính cho sự hình thành ban đầu của khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển”. Johnson, mặc dù dùng thuật ngữ “Mô hình Nhật Bản”, cũng đã cảnh báo về sự khái quát quá mức nếu chỉ dựa vào nghiên cứu Nhật Bản. Nói cách khác, việc gọi cách thức mà Chính phủ Nhật định hướng và dẫn dắt phát triển kinh tế là một “mô hình” cần phải được dùng một cách thận trọng vì tính khái quát lý thuyết còn rất thấp và do vậy tiếp tục nghiên cứu các trường hợp tương tự ở các nước NIC Đông Á cũng như tại chính nước Nhật. Các đặc điểm của mô hình Nhật Bản sau này cũng được đối chiếu và phân tích trong các trường hợp khác, đặc biệt là tại các nước NIC Đông Á.<ref>[http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/nha-nuoc-kien-tao-phat-trien-khai-niem-va-thuc-te-126548.html Nhà nước kiến tạo phát triển: Khái niệm và thực tế], Tạp chí Tài chính, 27/06/2017</ref>
 
Trong trường hợp của [[Nhật Bản]], quyền sở hữu doanh nghiệp rất ít, nhưng lĩnh vực tư nhân được chỉ rất dẫn khắt khe và bị giới hạn bởi những người cơ quan chính phủ có quyền lực. Những người này không được bầu cử chính thức và do đó sự ảnh hưởng của các tập đoàn và các nhóm lợi ích tới họ ít hơn trong quá trình xung đột. Sự xung đột trong vấn đề này là các Bộ của chính phủ có thể tự do quy hoạch kinh tế và có tầm nhìn lâu dài mà không có tập đoàn hay cá nhân nào trong ngắn hạn có thể phá vỡ được chính sách kinh tế của các Bộ.
 
===Thái Lan===
Vào cuối những năm 1990, một nghiên cứu được thực hiện bằng cách phỏng vấn 24 người doanh nghiệp lớn ở [[Thái Lan]] được sở hữu bởi tập đoàn [[Nhật Bản]] và Hoa Kỳ. Họ cho rằng đa số các người lao động trong những tập đoàn này làm nhiều hơn trung bình ở Thái Lan, và [[lương tối thiểu]] là $4,40 vào thời điểm này. Từ phân tích của các nhà nghiên cứu từ 1.000 bản câu hỏi cho thấy người lao động có lương thu và lợi ích cao hơn trung bình so với công ty được sở hữu bởi người Thái. Họ tìm thấy điều kiện lao động trong tất cả 24 công ty điều không hợp tiêu chuẩn trong đó có [[Nike, Inc.|Nike]] ở Đông Nam Á.<ref>Richter, Frank-Jurgen. 2000. ''The Asian Economic Crisis.'' New York: Quorum Press.</ref>