Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Wingfield (DE-194)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:04.7888996 using AWB
Dòng 99:
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== Mặt trận Đại Tây Dương ===
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực [[Bermuda]] và tiếp tục thực hành huấn luyện tại khu vực [[Casco Bay]], [[Maine]], ''Wingfield'' trình diện để phục vụ như một tàu huấn luyện cùng Trường Khu trục Hộ tống vào ngày [[1 tháng 4]], [[1944]]. Nó chuyển sang vai trò hộ tống vận tải vào ngày [[8 tháng 4]], khi tháp tùng một đoàn tàu ven biển đi đến [[thành phố New York|New York]], rồi cùng với tàu chị em {{USS|Thornhill|DE-195|3}} rời [[Norfolk, Virginia]] vào ngày [[16 tháng 4]] để truy lùng một [[tàu ngầm]] [[U-boat]] [[Đức quốc xã|Đức]] được cho là đã xuất hiện về phía Nam [[mũi Hatteras]]. Nó đi đến Bermuda trước khi quay trở lại Norfolk vào ngày [[1 tháng 5]], rồi được đặt làm [[soái hạm]] cho Đội hộ tống 55.<ref name=DANFS/>
 
Đội hộ tống 55 đi đến cảng New York vào ngày [[9 tháng 5]], rồi cùng một bộ phận của Đoàn tàu UGS-42 đi đến Norfolk vào ngày hôm sau; đoàn tàu gồm 108 chiếc này bắt đầu hành trình vượt [[Đại Tây Dương]] để đi sang [[Bắc Phi]] khi rời [[Hampton Roads]] vào ngày [[13 tháng 5]] và đi đến [[Bizerte]], [[Tunisia]] vào ngày [[1 tháng 6]]. ''Wingfield'' khởi hành cùng một đoàn tàu vận tải khác để quay trở về New York vào ngày [[29 tháng 6]], rồi lên đường đi Casco Bay vào ngày [[10 tháng 7]] để hoạt động huấn luyện ôn tập. Nó lại thực hiện một chuyến hộ tống vận tải khứ hồi khác từ ngày [[24 tháng 7]] đến ngày [[7 tháng 9]], cùng Đoàn tàu UGS-49 đi từ Norfolk đến Bizerte rồi quay trở về New York.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được sửa chữa những hư hại sau chuyến đi tại [[Xưởng hải quân New York]] và thực hành huấn luyện tại khu vực Casco Bay, ''Wingfield'' rời New York vào ngày [[14 tháng 10]] cho chuyến đầu tiên trong số năm chuyến hộ tống vận tải khứ hồi vượt Đại Tây Dương đi sang [[Anh Quốc]]. Nó từ [[Plymouth]], Anh quay trở về New York vào ngày [[9 tháng 11]]; rồi tiếp tục chuyến khứ hồi thứ hai giữa New York và Plymouth từ ngày [[2 tháng 12]] đến ngày [[1 tháng 1]], [[1945]]. Chuyến đi thứ ba giữa New York với [[Cardiff]], [[Wales]] được con tàu thực hiện từ ngày [[18 tháng 1]] đến ngày [[18 tháng 2]]; rồi sau đó từ ngày [[8 tháng 3]] đến ngày [[4 tháng 4]] là chuyến đi sang Cardiff xuất phát từ [[Boston]], [[Massachusetts]] nhưng quay trở về New York. Chuyến hộ tống vận tải khứ hồi cuối cùng giữa New York và [[Southampton]], Anh được nó thực hiện từ ngày [[24 tháng 4]] đến ngày [[23 tháng 5]]; con tàu đang ở lại cảng khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu.<ref name=DANFS/>
 
=== Mặt trận Thái Bình Dương ===
Sau khi được bảo trì tại Xưởng hải quân New York và huấn luyện ôn tập tại khu vực [[vịnh Guantánamo, Cuba]], ''Wingfield'' cùng với Đội hộ tống 55 khởi hành để đi sang khu vực [[Mặt trận Thái Bình Dương]]. Nó băng qua [[kênh đào Panama]] vào ngày [[1 tháng 7]], có một chặng dừng ngắn tại [[San Diego, California]] trước khi đi đến [[Trân Châu Cảng]] vào ngày [[20 tháng 7]]. Con tàu được bảo trì trong năm ngày rồi bắt đầu hoạt động huấn luyện học viên sĩ quan tại khu vực [[quần đảo Hawaii]] cũng như thực hành tác xạ và [[Chiến tranh chống tàu ngầm|chống tàu ngầm]]. Nó cùng với Đội hộ tống 55 rời Trân Châu Cảng vào ngày [[8 tháng 8]] để hộ tống cho chiếc [[RMS Empress of Australia (1919)|SS ''Empress of Australia'']] đi sang đảo [[Eniwetok]] thuộc [[quần đảo Marshall]]. Lúc đang trên đường đi, nó nhận được tin tức về việc [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] đã [[Nhật Bản đầu hàng|chấp nhận đầu hàng]] vào ngày [[15 tháng 8]] giúp kết thúc cuộc xung đột.<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==