Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Thornhill (DE-195)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:04.5497794 using AWB
Dòng 96:
== Lịch sử hoạt động ==
=== USS ''Thornhill'' ===
''Thornhill'' khởi hành vào ngày [[18 tháng 2]], [[1944]] để tiến hành việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực [[Bermuda]], rồi quay trở về [[thành phố New York|New York]] đúng một tháng sau đó. Nó phục vụ như một tàu huấn luyện tại [[Norfolk, Virginia]] trong [[tháng 4]], rồi quay trở lại New York vào [[tháng 5]] để hộ tống một bộ phần của Đoàn tàu UGS-42 đi đến Norfolk. Đoàn tàu bao gồm 108 chiếc này bắt đầu hành trình vượt [[Đại Tây Dương]] để đi sang [[Bắc Phi]] khi rời [[Hampton Roads]] vào ngày [[13 tháng 5]] và đi đến [[Bizerte]], [[Tunisia]] vào ngày [[1 tháng 6]]. ''Thornhill'' khởi hành cùng một đoàn tàu vận tải khác để quay trở về New York vào ngày [[29 tháng 6]]. Đến cuối [[tháng 7]], nó lại tham gia thành phần hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đi sang Bắc Phi, rồi quay trở về New York vào ngày [[7 tháng 9]]. Trong tám tháng tiếp theo sau, nó tiếp tục hoàn tất bốn chuyến hộ tống vận tải khứ hồi vượt Đại Tây Dương sang các cảng [[Anh]] và [[Pháp]].<ref name=DANFS/>
 
Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, ''Thornhill'' cùng với Đội hộ tống 55 được điều động sang khu vực [[Mặt trận Thái Bình Dương]]. Họ lên đường vào ngày [[9 tháng 6]], [[1945]], tiến hành huấn luyện ôn tập tại khu vực [[vịnh Guantánamo, Cuba]] trước khi băng qua [[kênh đào Panama]], có một chặng dừng ngắn tại [[San Diego, California]] vào ngày [[9 tháng 7]] trước khi tiếp tục hành trình, và đi đến [[Trân Châu Cảng]] vào ngày [[20 tháng 7]]. Con tàu được bảo trì và huấn luyện trước khi cùng với Đội hộ tống 55 rời khu vực [[quần đảo Hawaii]] vào ngày [[8 tháng 8]] để hộ tống cho chiếc [[RMS Empress of Australia (1919)|SS ''Empress of Australia'']] đi sang đảo [[Eniwetok]] thuộc [[quần đảo Marshall]]. Lúc đang trên đường đi, nó nhận được tin tức về việc [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] đã [[Nhật Bản đầu hàng|chấp nhận đầu hàng]] vào ngày [[15 tháng 8]] giúp kết thúc cuộc xung đột.<ref name=DANFS/>
 
''Thornhill'' tiếp tục ở lại khu vực quần đảo Marshall cho đến ngày [[7 tháng 12]], khi nó cùng tàu chị em {{USS|Wingfield|DE-194|2}} lên đường quay trở lại quần đảo Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[13 tháng 12]]. Con tàu đã phục vụ như tàu quan trắc thời tiết tại khu vực trong [[tháng 1]], [[1946]], rồi khởi hành vào ngày [[2 tháng 2]] để quay trở về Hoa Kỳ, ghé qua San Diego trước khi đi đến [[Xưởng hải quân Boston]] vào ngày [[7 tháng 3]]. Nó tiếp tục đi đến [[Green Cove Springs, Florida]] một tuần sau đó để chuẩn bị ngừng hoạt động, rồi được cho xuất biên chế vào ngày [[17 tháng 6]], [[1946]] và được đưa về [[Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource/>
 
=== ''Aldebaran'' (F 590) ===
[[Tập tin:Nave Aldebaran.jpg|thumb|left|Tàu frigate Italia ''Aldebaran'' (F 590).]]
Con tàu được chuyển cho chính phủ [[Ý]] vào ngày [[10 tháng 1]], [[1951]] trong khuôn khổ [[Chương trình Viện trợ Quân sự]], đồng thời rút tên khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] Hoa Kỳ vào ngày [[26 tháng 3]], [[1951]]. Nó tiếp tục phục vụ cùng [[Hải quân Ý]] như là chiếc [[tàu frigate]] '''''Aldebaran'' (F 590)''' cho đến khi ngừng hoạt động và bị tháo dỡ vào năm [[1976]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource/><ref>{{chú thích web | title=Aldebaran (F 590) | url=https://www.marina.difesa.it/noi-siamo-la-marina/mezzi/mezzi-storici/Pagine/ABCD/aldebaran.aspx | publisher=Marina Miliotare | access-date=21 February 2021}}</ref>
 
== Phần thưởng ==