Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Rinehart (DE-196)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:05.6482658 using AWB
Dòng 93:
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== Mặt trận Đại Tây Dương ===
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực [[Bermuda]] và phục vụ một thời gian ngắn trong vai trò tàu huấn luyện tại [[Norfolk, Virginia]], ''Rinehart'' thực hiện chuyến hộ tống vận tải đầu tiên khi đi đến [[thành phố New York|New York]] vào ngày [[8 tháng 5]], [[1944]], nơi nó tham gia một đoàn tàu vận tải vượt [[Đại Tây Dương]] để hướng sang [[Bắc Phi]], đi đến [[Bizerte]], [[Tunisia]] vào ngày [[1 tháng 6]]. Nó lên đường chín ngày sau đó cùng đoàn tàu quay trở về Hoa Kỳ, rồi tiếp tục thực hiện một chuyến hộ tống vận tải khứ hồi khác từ ngày [[24 tháng 7]] đến ngày [[7 tháng 9]], cùng Đoàn tàu UGS-49 đi từ Norfolk đến Bizerte rồi quay trở về New York.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được sửa chữa những hư hại sau chuyến đi tại [[Xưởng hải quân New York]] và thực hành huấn luyện tại khu vực Casco Bay, ''Rinehart''
rời New York vào ngày [[14 tháng 10]] cho chuyến đầu tiên trong số năm chuyến hộ tống vận tải khứ hồi vượt Đại Tây Dương đi sang [[Anh]] và [[Pháp]]. Con tàu từ [[Liverpool]], Anh quay trở về New York vào ngày [[9 tháng 11]]; rồi tiếp tục chuyến khứ hồi thứ hai từ [[Boston]], [[Massachusetts]] đến [[Plymouth]], Anh và quay trở về New York từ ngày [[2 tháng 12]] đến ngày [[31 tháng 12]]. Chuyến đi thứ ba giữa New York với Liverpool được con tàu thực hiện từ ngày [[18 tháng 1]] đến ngày [[14 tháng 2]], [[1945]]; rồi sau đó từ ngày [[8 tháng 3]] đến ngày [[4 tháng 4]] là chuyến đi sang [[Le Havre]], Pháp và [[Southampton]], Anh, xuất phát từ Boston nhưng quay trở về New York. Chuyến hộ tống vận tải khứ hồi cuối cùng xuất phát từ Boston để đi sang [[Gourock]], [[Scotland]] và quay trở về New York được nó thực hiện từ ngày [[24 tháng 4]] đến ngày [[19 tháng 5]]. Trong chuyến đi sau cùng này, nó đã cứu vớt một thủy thủ bị sóng cuốn rơi khỏi [[tàu chở dầu]] {{SS|Sea Don}} vào ngày [[1 tháng 5]].<ref name=DANFS/>
 
=== Mặt trận Thái Bình Dương ===
Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, ''Rinehart'' cùng với Đội hộ tống 55 được điều động sang khu vực [[Mặt trận Thái Bình Dương]]. Họ rời New York vào ngày [[9 tháng 6]], [[1945]], tiến hành huấn luyện ôn tập tại khu vực [[vịnh Guantánamo, Cuba]] trước khi băng qua [[kênh đào Panama]] vào ngày [[1 tháng 7]], có một chặng dừng ngắn tại [[San Diego, California]] vào ngày [[9 tháng 7]] trước khi tiếp tục hành trình, và đi đến [[Trân Châu Cảng]] vào ngày [[21 tháng 7]]. Con tàu được bảo trì và huấn luyện trước khi cùng với Đội hộ tống 55 rời khu vực [[quần đảo Hawaii]] vào ngày [[8 tháng 8]] để hộ tống cho chiếc [[RMS Empress of Australia (1919)|SS ''Empress of Australia'']] đi sang đảo [[Eniwetok]] thuộc [[quần đảo Marshall]]. Lúc đang trên đường đi, nó nhận được tin tức về việc [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] đã [[Nhật Bản đầu hàng|chấp nhận đầu hàng]] vào ngày [[15 tháng 8]] giúp kết thúc cuộc xung đột.<ref name=DANFS/>
 
Tại khu vực quần đảo Marshall, ''Rinehart'' được phân công tuần tra dọc theo các tuyến đường vận tải hàng hải; vào ngày [[12 tháng 9]], nó đã trợ giúp cho chiếc [[LCVP-3832]] bị trôi dạt trên biển. Nó lên đường vào ngày [[26 tháng 9]] để hướng đến [[đảo Wake]], nơi nó đảm nhiệm vai trò tàu chỉ huy và thông tin liên lạc cho đến khi được thay phiên vào ngày [[4 tháng 10]]. Quay trở lại Eniwetok ngang qua [[đảo san hô Bikini|Bikini]], con tàu đã phục vụ tiếp liệu cho ba [[tàu quét mìn]] [[YMS-1 (lớp tàu quét mìn)|lớp YMS]] đặt căn cứ tại đây. Nó lại viếng thăm Bikini một lần nữa từ ngày [[19 tháng 10|19]] đến ngày [[21 tháng 10]] cho nhiệm vụ tương tự, rồi quay trở lại Wake vào ngày [[24 tháng 10]] tiếp tục phục vụ như tàu chỉ huy và thông tin liên lạc. Trong các ngày [[28 tháng 10|28]] và [[29 tháng 10]], trong hoàn cảnh thời tiết xấu do một cơn [[bão]], nó đã trợ giúp cho chiếc tàu buôn {{SS|Pierre Victory}} thoát ra khỏi mắc cạn giữa các rạn san hô.<ref name=DANFS/>
 
Khởi hành từ Wake vào ngày [[1 tháng 12]], ''Rinehart'' ghé đến Eniwetok để đón lên tàu những hành khách hải quân nhằm vận chuyển họ quay về khu vực Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[15 tháng 12]]. Nó đã phục vụ như tàu quan trắc thời tiết tại khu vực trong [[tháng 1]], [[1946]], rồi khởi hành vào ngày [[2 tháng 2]] để cùng tàu chị em {{USS|Thornhill|DE-195|3}} quay trở về Hoa Kỳ. Nó ghé qua [[San Pedro, California]] trước khi băng qua kênh đào Panama vào ngày [[1 tháng 3]] và đi đến [[Xưởng hải quân Boston]] vào ngày [[7 tháng 3]]. Nó cùng ''Thornhill'' tiếp tục đi đến [[Green Cove Springs, Florida]] một tuần sau đó để chuẩn bị ngừng hoạt động, rồi được cho xuất biên chế vào ngày [[17 tháng 7]], [[1946]] và được đưa về Đội Florida trực thuộc [[Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource/>
 
=== HNLMS ''De Bitter'' (F807) ===
Con tàu được chuyển cho chính phủ [[Hà Lan]] vào ngày [[1 tháng 6]], [[1950]] trong khuôn khổ [[Chương trình Viện trợ Quân sự]], đồng thời rút tên khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] Hoa Kỳ vào ngày [[26 tháng 9]], [[1950]]. Nó tiếp tục phục vụ cùng [[Hải quân Hoàng gia Hà Lan]] như là chiếc [[tàu frigate]] '''HNLMS ''De Bitter'' (F807)''' cho đến khi ngừng hoạt động vào [[tháng 12]], [[1967]] và bị bán để tháo dỡ vào [[tháng 2]], [[1968]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource/>
 
== Phần thưởng ==