Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tân Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 52:
==Hành chính==
Huyện Tân Kỳ có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn [[Tân Kỳ (thị trấn)|Tân Kỳ]] (huyện lỵ) và 21 xã: [[Đồng Văn, Tân Kỳ|Đồng Văn]], [[Giai Xuân, Tân Kỳ|Giai Xuân]], [[Hương Sơn, Tân Kỳ|Hương Sơn]], [[Kỳ Sơn, Tân Kỳ|Kỳ Sơn]], [[Kỳ Tân, Tân Kỳ|Kỳ Tân]], [[Nghĩa Bình, Tân Kỳ|Nghĩa Bình]], [[Nghĩa Đồng, Tân Kỳ|Nghĩa Đồng]], [[Nghĩa Dũng, Tân Kỳ|Nghĩa Dũng]], [[Nghĩa Hành, Tân Kỳ|Nghĩa Hành]], [[Nghĩa Hoàn]], [[Nghĩa Hợp]], [[Nghĩa Phúc, Tân Kỳ|Nghĩa Phúc]], [[Nghĩa Thái, Tân Kỳ|Nghĩa Thái]], [[Phú Sơn, Tân Kỳ|Phú Sơn]], [[Tân An, Tân Kỳ|Tân An]], [[Tân Hợp, Tân Kỳ|Tân Hợp]], [[Tân Hương, Tân Kỳ|Tân Hương]], [[Tân Long, Tân Kỳ|Tân Long]], [[Tân Phú, Tân Kỳ|Tân Phú]], [[Tân Xuân, Tân Kỳ|Tân Xuân]], [[Tiên Kỳ, Tân Kỳ|Tiên Kỳ]].
 
==Kinh tế - xã hội==
* Nông nghiệp: Trồng trọt: lúa, ngô (bắp), sắn; Cây ăn quả (cam, chanh, vải, mít, dưa hấu); Cây công nghiệp tiêu, mía đường, cao su (gần đây phát triển khá mạnh), dâu tằm. Chăn nuôi: trâu, bò, lợn, gà, ba ba, rắn {{fact|date=7-2014}}.
* Khai thác khoáng sản: Đá vôi.
* Công nghiệp: Chế biến nông sản, mía đường, bia hơi, phân vi sinh.
 
'''Tài nguyên đất'''
 
Theo
số liệu thống kê của UBND huyện Tân Kỳ, trên địa bàn huyện, hiện tại có các
nhóm đất chính sau đây:
 
-
Nhóm đất phù sa: Đất phù sa được bồi đắp hàng năm có diện tích: 3.084ha, chỉ
chiếm 4,23% diện tích đất tự nhiên của huyện. Toàn bộ diện đất đất phù sa phân
bố dọc theo đôi bờ tả hữu sông Con, hay nói cách khác, những cánh đồng phù sa
này là sản phẩm mà dòng sông Con đem ban tặng cho các thế hệ cư dân ở Tân Kỳ.
Đất có độ phì nhiêu cao, được sử dụng từ lâu vào việc trồng mía, lạc, ngô, đậu,
rau, bầu bí,v.v.. mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Tuy nhiên,
do phân bố dọc bờ sông Con nên về mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, mang phù sa
bồi đắp, nhưng cũng làm ngập chìm các loại cây trồng.
 
-
Đất phù sa không được bồi đắp thường xuyên, có độ Glây mạnh, phân bố ở các xã
Đồng Văn, Tiên Kỳ, Nghĩa Phúc,v.v.. với tổng diện tích là 342ha. Loại đất này
thích hợp cho việc trồng lúa và một số loại cây rau màu khác.
 
-
Đất phù sa không được bồi chua, Glây yếu, có diện tích 3.640 ha, chiếm 4,99%
diện tích tự nhiên của toàn huyện. Diện tích đất này phân bố chủ yếu ở các xã Nghĩa
Đồng, Nghĩa Phúc, Tân Xuân, Giai Xuân.
 
-
Đất phù sa có nhiều sản phẩm Feralít có diện tích 3,731 ha, chiếm 5,12% diện
tích tự nhiên toàn huyện, được phân bố chủ yếu ở hầu hết các xã trên địa bàn
huyện. Loại đất này chủ yếu để trồng lúa và nếu giải quyết tốt nguồn nước tưới
có thể trồng từ 2 - 3 vụ trong năm.
 
-
Nhóm đất vàng: Đất nâu vàng phát triển trên nền phù sa cổ, với 1.312 ha, chiếm
1,8% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Loại đất này phù hợp cho việc trồng
cây ăn quả như: cam, dứa, cà phê,v.v…
 
-
Nhóm đất lúa vàng vùng đồi núi:
 
+
Đất Feralít biến đổi do trồng lúa có diện tích 1.470ha, chiếm 2,02% diện tích
tự nhiên, loại đất này chủ yếu là ruộng bậc thang, thường chỉ trồng lúa 1
vụ/năm, cho năng suất không cao.
 
 + Đất dốc tụ có 75 ha, chiếm 0,1% diện tích tự
nhiên của huyện.
 
-
Nhóm đất Fera lít đỏ vàng miền núi bao gồm các loại: đất Feralít đỏ vàng trên
đá kết, có diện tích 1.242 ha… Đất Feralít đỏ vàng trên phiến thạch có: 2.311
ha, chiếm 3,1% diện tích tự nhiên. Đất Feralít đỏ vàng trên đá Mác ma axít có:
6.196ha, chiếm 8,5% diện tích tự nhiên toàn huyện. Đất Feralít phát triển trên
nền đá vôi có 8.332 ha, chiếm 11,43% diện tích đất tự nhiên. Nhóm Feralít xói
mòn trơ sỏi đá có 1.150ha, chiếm 1,58% đất tự nhiên.
 
-
Nhóm đất đen gồm có các loại: Đất đen trên Tuýp có 1.841 ha, chiếm 1,51% đất tự
nhiên. Đất đen trên đá Các bon nát có 1.104 ha, chiếm 1,51% đất tự nhiên toàn
huyện. Đất Feralít đỏ vàng ở vùng đồi núi thấp có các loại: đất Feralít đỏ vàng
trên phiến sét có 563ha chiếm 0,77% đất toàn huyện, chủ yếu để phát triển nông
nghiệp; đất Feralít đỏ vàng trên đá cát kết có 3.286 ha, chiếm 4,5% diện tích
đất tự nhiên toàn huyện. Loại đất này độ mùn thấp, chủ yếu để trồng cây gây
rừng[1].
 
          Nguồn
tài nguyên đất đai ở Tân Kỳ nhìn chung là khá phong phú, đa dạng về chủng loại,
song ngoài phần đất phù sa dọc sông Con, còn các loại đất khác phần do khai
thác sử dụng lâu dài nên bạc màu, phần do xói mòn rất khó để phát triển cây
trồng. Một diện tích lớn đất đai lại rất khó khăn trong việc chủ động nguồn nước
tưới, do đó, về mùa khô hanh, nắng hạn, tình trạng thiếu nước diễn ra trầm
trọng, rất khó cho việc thâm canh tăng vụ. Hiểu rõ tình trạng đất đai ở Tân Kỳ,
khi đặt chân đến vùng Lèn Rỏi, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng, Nghĩa Đồng, Nghĩa Hợp,…
hay vùng Tân Xuân, Giai Xuân, nhìn những cánh đồng lúa, mía, ngô, lạc, ớt, sắn,
khoai, bầu bí, hay những cánh rừng tràm xanh ngát, ta mới hiểu hết những nỗ lực
của các cấp chính quyền để cùng nhân dân biến đất cằn khô sỏi đá thành những
cánh đồng mang lại hiệu quả kinh tế cao để từng bước thoát khỏi đói nghèo, đưa
Tân Kỳ vươn lên trở thành một vùng quê đẹp về phong cảnh, giàu về kinh tế, ổn
định về chính trị - xã hội và có đời sống dân trí ngày càng cao.
 
'''Tài nguyên nước'''
 
Nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lượng mưa hàng năm bình quân lên tới
2000 - 2200mm, nên lượng nước trên bề mặt ở Tân Kỳ khá dồi dào. Sông Con chảy
qua địa bàn huyện có chiều dài 65 km góp phần không nhỏ trong việc cung cấp điều
hòa lượng nước. Đó là chưa kể tổng chiều dài các khe suối đổ nước về sông Con
trên địa bàn huyện là khoảng 400 km cũng góp một phần quan trọng trong việc duy
trì nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất. Trong số hàng chục khe suối lớn nhỏ, có
06 con suối nước chảy quanh năm là: khe Lòa, khe Lá, khe Sanh, khe Thiềm, khe
Thần và khe Cừa.
 
Kể
cả sông Con và các khe suối ở Tân Kỳ thường có chung một điểm là lòng hẹp, dốc,
do đó, về mùa mưa lũ, nước dâng cao, chảy xiết, rất khó khăn trong việc đi lại,
thậm chí còn gây ngập úng sạt lở nguy hiểm. Về mùa hanh khô và mùa nắng nóng,
lượng nước nhỏ, nhiều cồn, đụn cát chạy dài ngay giữa lòng sông, cản trở việc
thông thương đi lại. Nhìn chung, sông Con không tạo ra một tuyến đường thủy
quan trọng trên địa bàn mà chỉ có giá trị trong việc cung cấp nguồn nước tưới
phục vụ sản xuất nông nghiệp.
 
          Để
có thể phát triển sản xuất, ổn định đời sống bền vững, lâu dài cho nhân dân,
trong suốt thời gian qua, các cấp chính quyền địa phương cùng nhân dân phát huy
tính chủ động, khai thác nguồn nội lực, tranh thủ mọi sự đầu tư giúp đỡ của
tỉnh và Trung ương, xây dựng cả một hệ thống hồ đập ở nhiều xã với tổng trữ
lượng nước là 47,22 triệu m<sup>3</sup>. Nhờ hệ thống hồ đập nhân tạo này mà
vấn đề nước tưới phục vụ phát triển nông nghiệp trên địa bàn các xã từng bước
đi vào thế chủ động. Nguồn nước ngầm ở Tân Kỳ tương đối dồi dào, chỉ trừ hai xã
là Tân Hợp và Giai Xuân, qua khảo sát thực tế, nguồn nước ngầm thấp, gây không
ít khó khăn trong việc khai thác nguồn nước ngầm phục vụ đời sống dân sinh.
 
          Công tác nghiên cứu, thăm dò nguồn nước
khoáng có sẵn trong thiên nhiên trên địa bàn huyện đã và đang tiếp tục được
tiến hành. Theo kết quả sơ bộ của các nhà địa chất, ở độ sâu khoảng 250 - 300m
vùng giáp với Quỳ Hợp và khu vực dọc theo Lèn Rỏi có nguồn nước tốt. Đây là một
tín hiệu đáng mừng, bởi đó sẽ là một nguồn tài nguyên quý, góp phần vào việc
phát triển kinh tế huyện trong những năm tới.
 
          '''Tài nguyên rừng'''
 
          Theo
tài liệu của người Pháp để lại, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phần lớn diện
tích đất đai ở địa bàn Tân Kỳ ngày nay là những cánh rừng nguyên sinh với đủ
loại gỗ quý như: lim, dổi, vàng tâm, kiền kiền, đinh hương, dạ hương,… đến các
loại tre, nứa, mét, mây, song. Các loại cây dược liệu để làm thuốc,... Dưới tán
rừng là đủ loại chim thú từ voi, hổ, báo, bò rừng, trâu rừng, lợn rừng,… đến
các loại chồn, cáo, trăn, rắn, chim muông.
 
          Sau
khi phong trào chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương của các văn thân sĩ phu yêu
nước tổ chức và lãnh đạo thất bại (1885 -1895), một bộ phận người Thái từ Như
Xuân, Như Thanh, Cẩm Thủy,… Thanh Hóa, người Thổ đến định cư ở vùng Liên Hoàn
xưa cho đến vùng Tân Xuân, Giai Xuân. Họ khai thác các loại gỗ quý ở những cánh
rừng dọc sông Con để làm nhà sàn, trong đó có những cây cao tới 30 - 40m, đường
kính từ 1,5 - 2,5m. Vào những năm 30, 40 của thế kỷ trước số người Kinh từ các
huyện Yên Thành, Đô Lương, Thanh Chương,… lên định cư ở vùng đất Tân Kỳ ngày
càng đông. Thêm vào đó là việc một số điền chủ người Pháp đến vùng đất Phủ Quỳ
và Tân Kỳ ngày nay để chiếm hữu đất đai, lập đồn điền trồng cao su, cà phê,… Họ
đã phải thuê mướn người dân sở tại khai phá rừng rậm, sau đó, chiếm hữu hàng
ngàn ha đất đai để trồng cao su, cà phê, trồng đay, ngô,… đem về Bến Thủy xuất
khẩu kiếm lời. Vùng đất phù sa dưới chân Lèn Rỏi lên đến vùng Cừa (Nghĩa Hoàn
ngày nay) có đồn điền của người Pháp, nhưng không ít nhân công đã bỏ mạng hoặc
phải bỏ về quê vì khí hậu khắc nghiệt, bệnh sốt rét, vàng da,… hoành hành.
 
          Nguồn
lợi gỗ, tre nứa, mét,… ở những cánh rừng dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh, đoạn
chạy qua Tân Kỳ ngày nay, hay ở khu vực Lèn Rỏi, Nghĩa Hoàn đến Tân Xuân, Giai
Xuân,… được nhân dân ở vùng đất Tân Kỳ và cả một số người ở Thanh Chương, Đô
Lương,… ngày nay khai thác để làm nhà và kết bè theo dòng sông Con, xuôi ra
sông Lam đem về xuôi để trao đổi buôn bán. Ngay như trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, để phục vụ cho chiến dịch Thượng Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ
(1953 -1954), tỉnh Nghệ An huy động hàng vạn dân công lên mở đường Lâm La - Kẻ
Bàng để vận chuyển lương thực, thực phẩm,… từ hậu phương Nghệ An ra phục vụ
chiến trường thì vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn ngày nay cho đến tận vùng Như Xuân
(Thanh Hóa) vẫn còn bạt ngàn những cánh rừng nguyên sinh, do đó có câu: “''Muỗi Lâm La, ma Kẻ Bàng''” là để chỉ vùng
rừng thiêng nước độc với bệnh sốt rét, bệnh vàng da.
 
          Do
khai thác quá mức, nhất là vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, diện tích
rừng nguyên sinh ở Tân Kỳ ngày càng thu hẹp dần. Trước thực trạng đó, trong
vòng hơn 3 thập kỷ qua các cấp chính quyền và nhân dân địa phương đã làm tốt
công tác giao đất, giao rừng để nhân dân khoanh nuôi, chăm sóc, bảo vệ rừng và
trồng mới rừng trên những vùng đất trống đồi trọc ở tất cả các xã trên địa bàn
huyện. Kết quả, đến năm 2010, diện tích đất lâm nghiệp của huyện lên tới
37.306,8 ha, chiếm tới 60,43% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Trong đó,
độ che phủ của rừng năm 2000 chỉ chiếm 21,56% đã tăng lên 26,56% năm 2005 và
đến năm 2010 diện tích rừng che phủ đã đạt đến 31,7%. Theo số liệu thống kê của
UBND huyện Tân Kỳ, đến cuối năm 2012, diện tích che phủ của rừng ở Tân Kỳ đã
đạt 33,5%. Huyện Tân Kỳ đang phấn đấu để đến năm 2015 đưa diện tích che phủ
của rừng trên địa bàn huyện lên tới 37 - 38%.
 
          Công
tác giao đất, giao rừng ở Tân Kỳ được tiến hành sớm, nhận được sự đồng thuận
của đông đảo nhân dân trên địa bàn tất cả các xã, nhờ đó, độ che phủ của rừng
tăng nhanh, liên tục trong nhiều năm. Hiện nay, có nhiều hộ dân ở Nghĩa Dũng,
Tân Hợp, Tân Xuân, Giai Xuân,… đang nhận khoanh nuôi, bảo vệ từ 5 - 25 ha rừng.
Nhiều cánh rừng Keo tràm, Bạch đàn đã cho thu hoạch. Các chủ rừng bắt đầu có
được nguồn lợi ổn định từ rừng. Trong khoảng 15 năm lại nay, ngoài việc phát
triển rừng Keo tram, Bạch đàn,… nhân dân Tân Kỳ đang khôi phục lại những cánh
rừng tái sinh, trồng mới lát hoa, dổi,… và chỉ trong khoảng vài thập kỷ tới số
diện tích rừng tái sinh này sẽ mang lại hiệu quả cao về kinh tế. Đây thực sự là
một hướng đi đúng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tân Kỳ từ cuối thế kỷ XX
đầu thế kỷ XXI trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững trên địa bàn huyện
theo mô hình: Nông - Lâm nghiệp kết hợp mà đại hội Đảng bộ các cấp đề ra.
 
          '''Tài nguyên khoáng sản'''
 
Theo
kết quả khảo sát, thăm dò của phòng Tài nguyên môi trường huyện Tân Kỳ và Sở
Tài nguyên môi trường Nghệ An, hiện tại, nguồn tài nguyên khoáng sản ở Tân Kỳ
tập trung chủ yếu vào một số loại sau đây:
 
-
Đá Vôi: phân bố chủ yếu ở khu vực Lèn Rỏi, có trữ lượng khoảng 2,8 tỷ tấn. Đá
vôi ở Lèn Rỏi có chất lượng tốt để sản xuất xi măng. Trong thời gian qua, một
số mỏ đá vôi đã được cấp phép để khai thác nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng nhà
cửa, cầu cống, đường giao thông,… trên địa bàn huyện. Quy mô của các mỏ đá
tương đối nhỏ, sản lượng khai thác hàng năm đủ đáp ứng cho nhu cầu của nhân dân
trên địa bàn huyện.
 
-
Mỏ đất Sét ở Lèn Rỏi: có trữ lượng khoảng 760
triệu tấn. Loại đất sét này cung cấp cho các nhà máy xi măng để làm chất phụ gia.
 
-
Ngoài ra còn có một số khoáng sản như cát, sạn dọc sông Con, các khe suối, đá
Granít, đá trắng,… ở Đồng Văn, Tiên Kỳ, Tân Hợp, Tân Phú và một số địa phương
khác.
 
Thiên
nhiên không có sự ưu đãi đặc biệt cho các thế hệ cư dân sinh sống và lập nghiệp
ở vùng đất Tân Kỳ xưa và nay. Song với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo,
tinh thần đoàn kết, từ bao đời nay các thế hệ người Kinh, người Thái, người Thổ
sống trên vùng đất Tân Kỳ đã chung lưng đấu cật khai phá núi rừng, cải tạo đồng
chua phèn, ruộng bậc thang, ngăn chặn lũ lụt, đào kênh mương dẫn nước, tưới
tiêu cho đồng ruộng,… dựng làng, lập bản, chống chọi với rừng thiêng nước độc,
bệnh tật thú dữ,… từng bước tạo lập cuộc sống. Mồ hôi, trí tuệ của lớp lớp cha
ông đã biến những bãi bồi dọc sông Con, những cánh đồng bậc thang dọc các thung
lũng núi và cả những sườn đồi núi dốc,… thành những cánh đồng lúa 2 - 3 vụ
trong năm, những bãi mía, nương ngô, đồng lạc, đậu,v.v… và cả những cánh rừng
xanh ngát màu xanh của cuộc sống. Đất và người Tân Kỳ xưa và nay gắn kết, thủy
chung và chính trên vùng đồi núi điệp trùng ấy các thế hệ cư dân tiếp nối đã,
đang viết nên những bài ca lao động sáng tạo để đưa Tân Kỳ vững bước đi tới
trên bước đường hội nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới.
 
==Giao thông==