Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hạc cầm”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes using AWB |
|||
Dòng 10:
===Đông phương===
Ở [[Châu Á]], Cổ đại Trung Hoa có [[
Đàn không hầu ngày xưa có hai dạng: đàn nằm và đàn đứng, lắp hai hàng dây, mỗi hàng 36 dây, mỗi dây đều do trụ hình chữ nhật đỡ trên hộp đàn. Do hai hàng dây đàn đồng âm với nhau, khi gảy bản nhạc có [[giai điệu]] nhanh và âm rộng, dễ đánh vì có thể dùng cả hai tay. Hơn nữa không hầu có thể dùng dạo và đệm nhạc trong tầm âm vừa, một ưu điểm mà các loại nhạc cụ khác khó sánh bằng. Âm sắc không hầu và đàn hạc phương Tây hoàn toàn khác nhau.
Dòng 19:
*Wagonghu (hangul: 와공후; hanja: 臥箜篌; "ngọa không hầu" tức "đàn hạc nằm").
Ở [[Nhật Bản]] thì có ''kudaragoto'' (百済琴/くだらごと; âm Hán Việt: "Bách Tề cầm"), còn được gọi là ''kugo'' (箜篌/くご; "không hầu"). Đàn này là nhạc cụ tấu trong ''Tōgaku'' ("Đường nhạc" tức "nhạc nhà Đường") thời kỳ Nara. Đến [[thế kỷ thứ 10]] thì thất truyền. Sau này ''kugo'' lại được hồi sinh. [[
Người Altai ở [[Mông Cổ]] có một loại đàn hạc tương tự, gọi là hạc cầm Altai. Thiết kế đàn dùng đầu con [[sơn dương]] sừng cong, thân đàn nằm ngang, đàn nhỏ có 6 dây, đàn lớn có 14 dây. Dây đàn nối từ khoảng giữa sừng sơn dương xuống thân.
Dòng 28:
Đàn hạc là đàn gảy. Đàn hạc thường xuất hiện trong dàn nhạc giao hưởng hoặc đệm cho hát trong nhạc thính phòng. Giá đàn hạc rất đắt. Để chế tác được một cây đàn hạc đòi hỏi rất nhiều công phu mới chế tác được. Theo [[Thần thoại Hy Lạp]], đàn hạc được tạo ra khi dùng ruột bò tạo thành dây trên khung gỗ.
Hạc cầm thì có nhiều kiểu, kích cỡ và khối lượng khác nhau, nhưng có 3 loại chính: loại hộp, loại uốn cong và loại dây. Hạc cầm cao từ 60
Tiếng Hạc cầm giống với tiếng [[ghi-ta|guitar]], nhưng âm sắc của giai điệu đa dạng và mềm mại hơn. Các nghệ sĩ thường kết hợp hạc cầm với sáo. Để học được, ngoài năng khiếu âm nhạc và lòng say mê, còn cần phải có người dài (thân cao), cánh tay dài, ngón tay khỏe, thịt tay chắc (dùng thịt đầu ngón tay để bấm, không phải dùng móng như guitar).
|