Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người đồng tính nữ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up
Dòng 1:
[[FileTập tin:Sappho and Erinna in a Garden at Mytilene.jpg|thumb|270px|''[[Sappho]] và [[Erinna]] trong khu vườn ở [[Mytilene]]'' bởi [[Simeon Solomon]], 1864]]
{{LGBT sidebar}}
[[FileTập tin:Double Venus.svg|thumb|165px|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn]] của [[sao Kim]] lồng vào nhau. Trong sinh học, biểu tượng đơn lẻ thể hiện giới tính nữ.<ref name="Zimmerman_symbols">{{citechú thích booksách|editor1-last=Zimmerman|editor1-first=Bonnie|title=Lesbian Histories and Cultures: An Encyclopedia|date=2000|edition=1st|volume=1 (Encyclopedia of Lesbian and Gay Histories and Cultures)|publisher=[[Garland Publishing]]|isbn=0-8153-1920-7|page=[https://archive.org/details/encyclopediaofle00bzim/page/748 748]|chapter=Symbols (by Christy Stevens)|chapter-url=https://archive.org/details/encyclopediaofle00bzim|url-access=registration|url=https://archive.org/details/encyclopediaofle00bzim/page/748}}</ref><ref name=Stearn1962>{{cite journal|author=Stearn, William T.|title=The Origin of the Male and Female Symbols of Biology|url=https://iapt-taxon.org/historic/Congress/IBC_1964/male_fem.pdf|journal=[[Taxon (journal)|Taxon]]|date=May 1962|volume=11|issue=4|pages=109–113|doi=10.2307/1217734|issn=0040-0262|access-date=ngày 23 Julytháng 7 năm 2019|jstor=1217734|author-link=William T. Stearn}}</ref>|alt=]]
'''Đồng tính nữ''' ({{lang-en|lesbian}}) là người một người phụ nữ bị thu hút bởi người cùng giới.<!-- NOTE: This and the second sentence have been extensively discussed. Please consult the talk page before changing.--><ref name="Lesbian">{{citechú thích web|title=Lesbian |publisher=[[Oxford Reference]]|access-date=Decemberngày 10, tháng 12 năm 2018|url=http://www.oxfordreference.com/view/10.1093/oi/authority.20110803100100998}}</ref><ref name="Zimmerman">Zimmerman, p. 453.</ref> Khái niệm này cũng được dùng để chỉ [[bản dạng tính dục]] hoặc [[hành vi tình dục]] mà không trong mối tương quan nào với [[xu hướng tính dục]], hoặc như một tính từ để làm rõ đặc điểm hoặc liên kết các danh từ với đồng tính nữ hoặc sự thu hút với người cùng giới.<ref name="Zimmerman"/><ref name="Solarz">{{citechú bookthích sách|author1=Committee on Lesbian Health Research Priorities|author2=Neuroscience and Behavioral Health Program |author3=Health Sciences Policy Program, Health - Sciences Section - Institute of Medicine|title=Lesbian Health: Current Assessment and Directions for the Future|publisher=[[National Academies Press]]|isbn =0309174066|year=1999|page=22|access-date=Octoberngày 16, tháng 10 năm 2013 |url=https://books.google.com/books?id=jVzGMF25uasC&pg=PA22}}</ref>
 
Việc sử dụng khái niệm “đồng tính nữ” để làm rõ sự khác biệt ở những phụ nữ có xu hướng tính dục chung nảy nở vào thế kỷ XX. Xuyên suốt lịch sử, phụ nữ đã không có quyền tự do hay độc lập như đàn ông để theo đuổi những mối quan hệ đồng tính, nhưng họ cũng không phải đối mặt với những hình phạt tàn khốc như đồng tính nam ở một số xã hội. Thay vào đó, những mối quan hệ đồng tính nữ thường được coi như là vô hại, trừ khi một người trong đó có ý định đòi lấy những quyền lợi vốn thuộc về nam giới. Kết quả là, rất ít những tài liệu lịch sử có những miêu tả chính xác về cách mà đồng tính nữ được biểu lộ. Khi những [[nhà tình dục học]] đầu tiên vào thế kỷ XIX bắt đầu phân loại và miêu tả những hành vi đồng tính, bị cản trở bởi sự thiếu hiểu biết về đồng tính và tính dục của phụ nữ, họ đã phân đồng tính nữ vào nhóm những phụ nữ không tuân theo các vai trò giới của nữ giới. Họ được coi là có bệnh về tâm thần - điều đã được thay đổi từ sau cuối thế kỷ XX trong cộng đồng khoa học quốc tế.
 
Phụ nữ có những mối quan hệ đồng tính ở Châu Âu và Hoa Kỳ đã phản ứng lại sự phân biệt và đàn áp bằng cách, hoặc là giấu đi đời sống cá nhân của bản thân, hoặc là chấp nhận việc bị đẩy ra ngoài rìa xã hội và tạo ra một nhóm văn hóa và [[danh tính]] khác. Sau [[Thế chiến II]], trong một thời kỳ của sự đàn áp, khi chính quyền thẳng tay ngược đãi những người đồng tính, phụ nữ đã tạo ra những mạng lưới để giao tiếp và giáo dục lẫn nhau. Giành được quyền tự do lớn hơn trong kinh tế và xã hội cho phép họ xác định được cách để gây dựng mối quan hệ và gia đình. Với [[làn sóng nữ quyền thứ hai]] và sự phát triển trong vốn hiểu biết về lịch sử và tính dục của phụ nữ vào cuối thế kỷ XX, định nghĩa của “đồng tính nữ” đã được mở rộng, dẫn tới những tranh cãi về việc sử dụng khái niệm này. Trong khi những nghiên cứu của [[Lisa M. Diamond]] coi ham muốn tình dục là yếu tố cốt lõi để định nghĩa đồng tính nữ,<ref name=Farr2014>{{cite journal|last1=Farr|first1=Rachel H.|last2=Diamond|first2=Lisa M.|last3=Boker|first3=Steven M.|title=Female Same-Sex Sexuality from a Dynamical Systems Perspective: Sexual Desire, Motivation, and Behavior|journal=[[Archives of Sexual Behavior]]|date=2014|volume=43|issue=8|pages=1477–1490|doi=10.1007/s10508-014-0378-z|pmid=25193132|pmc=4199863|issn=0004-0002}}</ref>{{efn|"Lesbian and fluid women were more exclusive than bisexual women in their sexual behaviors...Lesbian women appeared to lean toward exclusively same-sex attractions and behaviors...[and] appeared to demonstrate a 'core' lesbian orientation."<ref name=Farr2014 />}} một số phụ nữ có những mối quan hệ đồng giới có hoạt động tình dục lại không muốn xác định bản thân là đồng tính, thậm chí là [[song tính]]. Ở một số phụ nữ khác, việc tự nhận định bản thân là đồng tính nữ có thể không tương ứng với xu hướng tính dục hay hành vi tình dục. Bản dạng tính dục không nhất thiết phải giống với xu hướng tính dục hay hành vi tình dục, xuất phát từ nhiều lý do, ví dụ như nỗi sợ hãi việc xác định xu hướng tính dục của bản thân trong một bối cảnh có sự ghê sợ người đồng tính.
 
Hình ảnh người đồng tính nữ được khắc họa trên phương tiện truyền thông gợi ý rằng phần lớn xã hội đã đồng thời cảm thấy tò mò và bị đe dọa bởi những người phụ nữ không tuân theo các [[vai trò giới]], cũng như bị hấp dẫn và ghê sợ bởi những người phụ nữ có mối quan hệ tình cảm với phụ nữ khác. Phụ nữ tự xác định là đồng tính có cùng những trải nghiệm mà đã tạo nên một quan điểm tương đồng với căn tính sắc tộc: là những người đồng tính, họ được gắn kết bởi những trải nghiệm tương đồng khi đối mặt với [[sự phân biệt đối xử theo chủ nghĩa dị tính luyến ái]] và khả năng bị bỏ rơi bởi gia đình, bạn bè và rất nhiều người khác, bắt nguồn từ sự [[kỳ thị người đồng tính]]. Là phụ nữ, họ đối mặt với những lo ngại khác ngoài nam giới. Người đồng tính nữ đối mặt với những lo ngại riêng về sức khỏe thể chất hoặc tinh thần đến từ sự phân biệt đối xử, [[định kiến]], và [[căng thẳng]]. Bối cảnh chính trị và thái độ xã hội cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành các mối quan hệ và gia đình của người đồng tính nữ nói chung.
 
==Nguồn gốc và sự biến đổi của thuật ngữ==
[[Tập tin:Godward-In the Days of Sappho-1904.jpg|thumb|trái|alt=Painting of a woman dressed in Greek robes sitting on a marble bench with trees and water in the distance|[[Sappho]] ở [[Lesbos]], được thể hiện trong bức tranh năm 1904 bởi [[John William Godward]] đã hình thành nên cho thuật ngữ ''lesbian'' hàm ý về ham muốn nhục dục giữa những người phụ nữ.]]
Từ ''đồng tính nữ'' bắt nguồn từ [[Lesbos]] - một hòn đảo Hy Lạp, quê hương của nhà thơ [[Sappho]] ở thế kỷ XVI TCN.<ref name="Lesbian"/> Từ rất nhiều những bài viết cổ, các nhà sử học đã tìm ra được rằng một nhóm phụ nữ trẻ đã được Sappho hướng dẫn và chỉ dạy về văn hóa.<ref>Foster, p. 18.</ref> Rất ít những bài thơ của Sappho còn được lưu trữ, nhưng những bài thơ còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy chủ đề chính trong thơ ca của bà: đời sống thường ngày của phụ nữ, những mối quan hệ của họ, và những nghi thức.<ref>Aldrich, pp. 47–49.</ref> Bà tập trung vào vẻ đẹp của phụ nữ và tuyên bố tình yêu của bà dành cho nữ giới. Trước những năm giữa thế kỷ XIX,<ref>{{citechú bookthích sách|last=Gollmann|first=Wilhelm|others=[[Charles Julius Hempel]]; J. Emerson Kent|title=The Homeopathic Guide, In All Diseases of the Urinary and Sexual Organs, Including the Derangements Caused by Onanism and Sexual Excesses|year=1855|publisher=Rademacher & Sheek|location=Philadelphia|page=201|url=https://books.google.com/books?id=AzkzAQAAMAAJ&q=%22this+vice+has+derived+its%22&pg=PA201}}</ref> từ ''lesbian'' (đồng tính nữ) đề cập tới những thứ có nguồn gốc hoặc những khía cạnh của Lesbos, trong đó bao gồm cả tên một loại rượu.{{efn|An attempt by natives of Lesbos (also called "Mytilene" in Greece) in 2008 to reclaim the word to refer only to people from the island was unsuccessful in a Greek court. Inhabitants of Lesbos claimed the use of ''lesbian'' to refer to female homosexuality violated their human rights and "disgrace[d] them around the world".<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/7520343.stm Lesbos locals lose lesbian appeal], BBC News Europe [Julyngày 22, tháng 7 năm 2008]. RetrievedTruy oncập Februaryngày 3, tháng 2 năm 2009.</ref>}}
 
Trong tập thơ Sapphics năm 1866 của [[Algernon Charles Swinburne]], từ “lesbian” xuất hiện hai lần, nhưng được viết hoa cả hai lần đó, và đều được dùng sau khi nhắc tới đảo Lesbos, và cũng có thể được dùng với ý nghĩa: “bắt nguồn từ đảo Lesbos”.<ref>{{citechú thích web |url=http://www.poetryfoundation.org/poem/174569 |title=Sapphics |last1=Swinburne |first1=Algernon Charles |website=poetryfoundation |publisher=Poetry Foundation }}</ref> Năm 1875, George Saintsbury, trong bài viết về thơ ca của Baudelaire, đã nhắc tới “nghiên cứu về Lesbian” của ông, mà trong đó còn có cả thơ về “nhiệt huyết của Delphine”, một bài thơ đơn thuần về tình yêu giữa hai người phụ nữ mà không hề nhắc tới đảo Lesbos, mặc dù một bài thơ khác trong đó với tựa đề “Lesbos”, thì lại có.<ref name=Cohen2001>{{citechú bookthích sách|editor1-last=Cohen|editor1-first=Margaret|editor2-last=Dever|editor2-first=Carolyn|title=The Literary Channel: The Inter-National Invention of the Novel|date=2001|pages=251–285|chapter=Chapter Ten: Comparative Sapphism, [[Sharon Marcus]]|publisher=[[Princeton University Press]]|location=Princeton, New Jersey|url=https://academiccommons.columbia.edu/download/fedora_content/download/ac:157283/CONTENT/Sharon_Marcus_-_Comparative_Sapphism.pdf|isbn=978-0691050010}} (Document made available by [[Columbia University Libraries]]. PDF downloads automatically.)</ref> Việc sử dụng từ ''lesbianism'' để miêu tả mối quan hệ tình ái giữa những người phụ nữ đã xuất hiện trong một văn bản năm 1870.<ref name="Zimmerman, 20th century terminology">Zimmerman, pp. 776–777.</ref> Năm 1890, thuật ngữ ''lesbian'' đã được sử dụng trong một cuốn từ điển về y khoa như một tính từ để miêu tả hành động cọ xát âm hộ (với nghĩa như “tình yêu đồng tính nữ”). Thuật ngữ ''lesbian'', ''invert'' (''đảo ngược'') và ''đồng tính'' đã được sử dụng và có thể thay thế từ ''sapphist'', ''sapphism'' (đồng tính nữ) vào đầu thế kỷ XX.<ref name="Zimmerman, 20th century terminology"/> Việc sử dụng từ ''lesbian'' trong văn kiện về y dược đã trở nên phổ biến; và tới năm 1925, từ này đã được ghi nhận là một danh từ chỉ một người nữ tương đương với từ [[sodomy|sodomite]] (người thực hiện những hành vi tình dục không tự nhiên).<ref name="Zimmerman, 20th century terminology"/><ref name="oed">"Lesbian", [http://dictionary.oed.com/ Oxford English Dictionary], Second Edition, 1989. RetrievedTruy oncập Januaryngày 7, tháng 1 năm 2009.</ref>
 
Sự phát triển trong kiến thức về y dược là một nhân tố đáng kể trong việc mở rộng nghĩa của thuật ngữ ''lesbian''. Vào giữa thế kỷ XIX, những tác giả trong mảng y dược đã thử tìm cách để nhận dạng đồng tính nam, vốn được coi là một vấn đề xã hội nổi trội trong hầu hết các xã hội Tây phương. Trong khi phân loại những hành vi là dấu hiệu cho hiện tượng ''[[đảo ngược]]'', theo cách gọi của nhà tính dục học [[Magnus Hirschfeld]], các nhà nghiên cứu đã phân rõ những hành vi tính dục bình thường đối với nam và nữ giới, và từ đó cũng chỉ ra nam và nữ giới có thể khác biệt đến mức độ nào so với ''chuẩn nam tính'' và ''chuẩn nữ tính''.<ref>Aldrich, p. 168.</ref>
Dòng 27:
 
===Tính dục và bản dạng đồng tính nữ===
[[FileTập tin:Lesbian pride flag.svg|thumb|190px|phải|Lá cờ đồng tính nữ bao gồm một chiếc rìu [[labrys]] (hay rìu hai lưỡi) nằm trong một [[hình tam giác đen đảo ngược]], đặt trên nền có [[sắc tím]]. Chiếc rìu labrys tượng trưng cho [[sức mạnh đồng tính nữ]].<ref name=BendixAE>{{citechú thích web|last1=Bendix|first1=Trish|title=Why don't lesbians have a pride flag of our own?|url=https://www.afterellen.com/people/452039-dont-lesbians-pride-flag|website=[[AfterEllen]]|date=Septemberngày 8, tháng 9 năm 2015|access-date=ngày 23 Julytháng 7 năm 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20150909150736/https://www.afterellen.com/people/452039-dont-lesbians-pride-flag|archive-date=Septemberngày 9, tháng 9 năm 2015}}</ref>|alt=]]
[[FileTập tin:Lipstick Lesbian flag without lips.svg|thumb|190px|phải|Lá cờ đồng tính nữ bắt nguồn từ thiết kế cờ Đồng tính nữ Son môi năm 2010.<ref>{{citechú newsthích báo|last1=Andersson|first1=Jasmine|title=Pride flag guide: what the different flags look like, and what they all mean|url=https://inews.co.uk/news/pride-flag-guide-what-the-different-flags-look-like-and-what-they-all-mean/|work=[[i (newspaper)|i]]|date=Julyngày 4, tháng 7 năm 2019|access-date=ngày 24 Augusttháng 8 năm 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20190824081636/https://inews.co.uk/news/pride-flag-guide-what-the-different-flags-look-like-and-what-they-all-mean/|archive-date=ngày 24 Augusttháng 8 năm 2019|url-status=live}}</ref><ref>{{citechú newsthích báo|last1=Rawles|first1=Timothy|title=The many flags of the LGBT community|url=https://sdgln.com/social/2019/07/12/many-flags-lgbt-community|work=[[San Diego Gay & Lesbian News]]|date=Julyngày 12, tháng 7 năm 2019|access-date=ngày 24 Augusttháng 8 năm 2019}}</ref>]]
[[FileTập tin:Lesbian Pride Flag 2019.svg|thumb|190px|phải|Lá cờ cộng đồng đồng tính nữ được đưa lên mạng xã hội năm 2018, với sọc cam đậm tượng trưng cho [[biến thể về giới]].<ref>{{citechú thích web|title=Lesbian Flag, Sadlesbeandisaster|url=https://majesticmess.com/encyclopedia/lesbian-flag-sadlesbeandisaster/|website=Majestic Mess|date=April 2019|access-date=ngày 24 Augusttháng 8 năm 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20190608151937/https://majesticmess.com/encyclopedia/lesbian-flag-sadlesbeandisaster/|archive-date=ngày 8 Junetháng 6 năm 2019|url-status=live}}</ref><ref>{{Citechú thích web|last1=Murphy-Kasp|first1= Paul|url=https://www.bbc.com/news/av/uk-england-london-48885240/pride-in-london-what-do-all-the-flags-mean|title=Pride in London: What do all the flags mean?|website=[[BBC News]]|date=ngày 6 Julytháng 7 năm 2019|access-date=ngày 11 Julytháng 7 năm 2019}}</ref>]]
Ý kiến cho rằng cần phải có những hoạt động tình dục giữa phụ nữ để định nghĩa một người đồng tính nữ hoặc một mối quan hệ đồng tính nữ vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Theo như tác giả theo phong trào nữ quyền, Naomi McCormick, tính dục của phụ nữ được dựng nên bởi nam giới, những người coi trải nghiệm tình dục với phụ nữ khác là cách chính để xác định xu hướng tính dục là đồng tính nữ. Tuy nhiêm, cách xác định tương tự lại không cần thiết khi định danh một phụ nữ dị tính. McCormick đã phát biểu rằng, sự kết nối về cảm xúc, tâm lý và tư tưởng giữa những người phụ nữ mới là quan trọng, chứ không phải nằm ở tình dục.<ref>McCormick, pp. 60–61.</ref> Tuy nhiên, vào những năm 1980, một phong trào đáng chú ý đã từ chối việc loại bỏ các yếu tố tình dục về những người đồng tính nữ được khởi xướng bởi những người theo chủ nghĩa nữ quyền truyền thống, gây ra một cuộc tranh cãi nảy lửa, được gọi là [[cuộc chiến tính dục của nữ quyền]].<ref>Faderman (1991), pp. 246–252.</ref> Các vai butch và femme quay trở lại, dù không còn được tuân theo một cách chặt chẽ như trong những năm 1950. Chúng trở thành một xu hướng khi chọn lựa biểu hiện giới cho nhiều phụ nữ trong những năm 1990. Một lần nữa, phụ nữ cảm thấy an toàn hơn khi khẳng định rằng bản thân có nhiều trải nghiệm tình dục, và sự linh hoạt về tính dục dần được chấp nhận.<ref>Faderman, Lillian (April 1992). "The Return of Butch and Femme: A Phenomenon in Lesbian Sexuality in the 1980s and 1990s", ''Journal of the History of Sexuality'', '''2''' (4), pp. 578–596.</ref>
 
Cuộc tranh cãi tập trung vào một hiện tượng được đặt tên bởi nhà tình duc học [[Pepper Schwartz]] năm 1983. Schwartz phát hiện ra rằng những cặp đôi đồng tính nữ đã bên nhau nhiều năm có ít tương tác về tình dục hơn những cặp đôi dị tính hoặc đồng tính nam, và gọi việc này là “sự đóng băng hoạt động tình dục ở đồng tính nữ” (''[[lesbian bed death]]''). Tuy nhiên, những người đồng tính nữ phản đối định nghĩa về tương tác tình dục trong nghiên cứu này, và chỉ ra một số yếu tố khác, ví dụ như những kết nối sâu sắc vốn đã tồn tại giữa phụ nữ, khiến cho việc tương tác tình dục thường xuyên trở nên dư thừa, hay [[xu hướng linh hoạt về tính dục]] của phụ nữ khiến họ chuyển từ dị tính sang song tính sang đồng tính nhiều lần trong đời - hoặc hoàn toàn từ chối việc đặt nhãn hiệu. Những tranh cãi sau này cũng cho thấy rằng nghiên cứu ấy có khuyết điểm và đã không đại diện chính xác những tương tác tình dục giữa phụ nữ, hoặc tương tác tình dục giữa phụ nữ đã tăng kể từ năm 1983, bởi nhiều người đồng tính nữ cảm thấy tự do hơn trong việc thể hiện tính dục của bản thân.<ref name="nichols">Nichols, Margaret (November, 2004). "Lesbian Sexuality/Female Sexuality: Rethinking 'Lesbian Bed Death'", ''Sexual and Relationship Therapy'', '''19''' (4), pp. 364–371.</ref>
 
Nhiều thảo luận sau này về giới tính và [[xu hướng tính dục]] đã ảnh hưởng cách mà rất nhiều phụ nữ đặt nhãn hoặc có cái nhìn về chính mình. Hầu hết mọi người trong các nền văn hóa Tây phương được dạy rằng dị tính là một trạng thái bẩm sinh của tất cả mọi người. Khi một người phụ nữ nhận ra sự thu hút về mặt tình cảm và tình dục với một người phụ nữ khác, nó có thể gây ra một “cuộc khủng hoảng hiện sinh”. Rất nhiều người phải trải qua điều này để chấp nhận danh tính là một người đồng tính nữ, thử thách những định kiến mà xã hội đã dựng nên về người đồng tính, để học cách sống trong một nhóm văn hóa đồng tính.<ref>Schlager, p. 93.</ref> Người đồng tính nữ trong các nền văn hóa Tây phương thường có chung một danh tính khá tương đồng với thứ được xây dựng dựa trên sắc tộc: họ có chung một lịch sử, chung nhóm văn hóa, có những trải nghiệm tương đồng với sự phân biệt đối xử, điều đã khiến rất nhiều người đồng tính nữ từ chối các nguyên tắc của dị tính. Điều này là độc nhất so với [[đồng tính nam]] hoặc dị tính nữ, và thường gây ra căng thẳng với phụ nữ song tính.<ref name="rust" /> Một trong những đối tượng gây tranh cãi là những người đồng tính nữ đã từng có quan hệ tình dục với nam giới, trong khi những người chưa từng thường được gọi là “gold star lesbian”. Những người đã từng quan hệ với nam giới thường đối mặt với sự chỉ trích từ những người đồng tính nữ khác, hoặc những khó khăn để định nghĩa thế nào là một người đồng tính nữ.<ref name="Shelby">{{citechú bookthích sách|author1=R Dennis Shelby |author2=Kathleen Dolan|title=Lesbian Women and Sexual Health: The Social Construction of Risk and Susceptibility|publisher=[[Routledge]]|isbn=978-1317718192|year=2014|page=34|access-date=Aprilngày 11, tháng 4 năm 2018|url=https://books.google.com/books?id=SNQJBAAAQBAJ&pg=PA34}}</ref>
 
Những nhà nghiên cứu, bao gồm cả các [[nhà khoa học về xã hội]], phát biểu rằng hành vi và bản dạng xu hướng tính dục thường không tương đồng: phụ nữ có thể gắn nhãn bản thân là dị tính những có quan hệ với phụ nữ, đồng tính nữ tự định danh vẫn có thể có quan hệ tình dục với nam giới, hoặc phụ nữ có thể nhận thấy rằng điều mà họ từng coi là một danh tính tính dục bất biến đã dần biến đổi theo thời gian.<ref name="Solarz"/><ref name="Diamond">{{citechú bookthích sách|author=Lisa M. Diamond|title=Sexual Fluidity|publisher=[[Harvard University Press]]|isbn =978-0674033696|year=2009|pages=105–106|access-date=Julyngày 20, tháng 7 năm 2014|url=https://books.google.com/books?id=4C1ktwsIrgwC&pg=PA105}}</ref> Một nghiên cứu được thực hiện bởi [[Lisa M. Diamond]] cùng các cộng sự đã cho thấy rằng “phụ nữ đồng tính hoặc linh hoạt về tính dục có hành vi tình dục giới hạn hơn so với phụ nữ song tính”, và rằng “đồng tính nữ dường như hướng về những sự thu hút và hành vi chỉ có riêng ở người đồng tính.” Nó cũng cho thấy rằng phụ nữ đồng tính “thường thể hiện một xu hướng ‘lõi’ ở đồng tính nữ”.<ref name=Farr2014/>
 
Một bài viết năm 2001 về việc phân biệt đồng tính nữ để phục vụ nghiên cứu y học và sức khỏe đã đề xuất việc nhận dạng đồng tính nữ dựa trên 3 đặc điểm nhận dạng: chỉ bằng định danh, chỉ bằng hành vi tính dục, hoặc 2 cách đó kết hợp. Bài viết đã không bao gồm những yếu tố về khao khát hay sự thu hút, bởi nó thường không có nhiều ảnh hưởng lên những vấn đề về sức khỏe hay tâm thần có thể nhận thấy.<ref name="brogan">Brogan, Donna, Frank, Erica, Elon, Lisa, O'Hanlon, Katherine (January 2001). "Methodological Concerns in Defining Lesbian for Health Research", ''Epidemiology'', '''12''' (1), pp. 109–113.</ref> Những nhà nghiên cứu cho rằng không có một định nghĩa tiêu chuẩn nào cho ''đồng tính nữ'', bởi “thuật ngữ này đã được sử dụng để chỉ những phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ, dù là chỉ riêng với phụ nữ hay còn quan hệ với đàn ông (tức ''hành vi''), phụ nữ xác định bản thân mình là đồng tính (''tức bản dạng''), và phụ nữ có sự ưu tiên cho việc quan hệ với phụ nữ (tức ''khao khát'' hoặc ''sự thu hút'')”; và rằng “việc thiếu đi một định nghĩa tiêu chuẩn cho đồng tính nữ và những câu hỏi tiêu chuẩn để đánh giá rằng ai là đồng tính nữ đã khiến cho việc định nghĩa cộng đồng phụ nữ đồng tính trở nên khó khăn.” Địa điểm và cách thức lấy các mẫu nghiên cứu cũng có thể ảnh hưởng đến định nghĩa này.<ref name="Solarz"/>
Dòng 56:
 
===Châu Âu đầu thời kì hiện đại===
[[FileTập tin:Hermaphrodite engraving circa 1690.jpg|thumb|upright|Đồng tính nữ và [[lưỡng tính]], như được mô tả ở đây trong một bức tranh chạm khắc trong khoảng năm 1690, là hai khái niệm vô cùng tương đồng trong [[thời kì Phục hưng]].|alt=A front and back illustration of a Renaissance-era hermaphrodite showing a person with female facial features, breasts, and what appears to be a small penis or large clitoris. She wears a small hood and open robe tied multiple times around the legs. Where it opens in the front, the apparent rear appearance shows it to be perhaps a shell of some kind, as one with her body Two squares are missing from her the back of her head and torso. She has no buttocks.]]
 
Khác với đồng tính nam hay ngoại tình, đồng tính luyến ái nữ đã không vướng phải những phản ứng tiêu cực từ chính quyền tôn giáo hay lập pháp xuyên suốt lịch sử. Ở nước Anh, trong khi những hành vi kê gian giữa đàn ông, giữa đàn ông với phụ nữ, và giữa đàn ông với động vật sẽ bị xử tử, thì những văn bản y khoa và pháp lý lại không hề nhắc đến quan hệ tình dục giữa phụ nữ. Những điều luật chống lại đồng tính nữ xuất hiện sớm nhất ở Pháp năm 1270.<ref name="norton191">Norton, p. 191.</ref> Ở Tây Ban Nha, Ý, và Đế quốc La Mã Thần thánh, hành vi kê gian giữa phụ nữ đã được tính là một hành vi phi tự nhiên và có thể bị xử thiêu chết, mặc dù số lượng những trường hợp như vậy xảy ra là rất thấp.<ref>Aldrich, p. 130.</ref>
Dòng 62:
Việc thi hành những điều luật như vậy xảy ra sớm nhất tại [[Speier]], [[Đức]] năm 1477. Một số [[nữ tu]] đã bị phát hiện đang “cưỡi” lên người nhau, hoăc đang động chạm vào ngực của nhau, đã bị yêu cầu phải ăn năn sám hối trong bốn mươi ngày. Theo như được ghi lại, một nữ tu người Ý tên Xơ [[Benedetta Carlini]] đã quyến rũ rất nhiều trong số những nữ tu khác trong khi bị chiếm hữu bởi một linh hồn thần thánh tên ''Splenditello''; và để kết thúc những mối quan hệ của bà với những người phụ nữ khác, bà đã bị biệt giam trong suốt 40 năm cuối của cuộc đời.<ref>Norton, p. 190.</ref> Trong khi đó, yếu tố tình ái đồng tính giữa phụ nữ đã rất phổ biến trong văn học và trong những nhà hát của nước Anh, khiến cho các sử gia đề xuất rằng đó có thể là một “mốt” trong [[thời kỳ Phục Hưng]].<ref>Jennings. p. 1.</ref>
 
Các ý niệm về tính dục của phụ nữ có những mối liên hệ với hiểu biết về sinh lý học nữ giới đương thời. [[Âm đạo]] đã được coi là một phiên bản ngược vào trong của dương vật; bởi sự hoàn mỹ của tự nhiên đã sinh ra người đàn ông, và người ta thường nghĩ rằng tự nhiên đang cố gắng sửa sai thành đúng khi làm sa trễ âm đạo của một số phụ nữ để tạo thành dương vật.<ref>Jennings, p. 12.</ref> Sau này, những thay đổi về giới tính này sau đó được coi là những trường hợp mơ hồ về giới tính, và sự mơ hồ giới tính trở thành từ đồng nghĩa với khao khát tình dục đồng giới ở phụ nữ. Những xem xét trong y khoa về sự mơ hồ giới tình còn tùy thuộc vào kích thước của âm vật; người ta coi rằng phụ nữ sẽ dùng một âm vật to và lớn hơn bình thường để quan hệ xâm nhập với những phụ nữ khác. Sự xâm nhập là trung tâm của sự quan tâm trong mọi hành vi tình dục, và một người phụ nữ bị coi là có những ham muốn không thể kiểm soát bởi có âm vật lớn sẽ bị gọi là “tribade” (dịch thô là “người chà xát”).<ref>Jennings, pp. 14–16.</ref> Ngoài việc âm vật lớn một cách bất thường bị coi là tạo ra ham muốn nhục dục ở một số phụ nữ và khiến họ muốn thủ dâm, còn tồn tại cả những cuốn sách mỏng dưới dạng những câu chuyện, nhằm cảnh báo phụ nữ về việc thủ dâm có thể khiến nhiều cơ quan bị to bất thường. Trong một khoảng thời gian, [[thủ dâm]] và tình dục đồng tính nữ từng có cùng một nghĩa.<ref>Aldrich, p. 129.</ref>
 
Mối liên hệ với sự phân biệt giai cấp trở nên rõ ràng hơn sau khi xu hướng tình dục đồng tính nữ qua đi. Các tribade vừa bị coi là thành phần của tầng lớp bên dưới đang cố hủy hoại những phụ nữ đức hạnh, vừa là đại diện cho tầng lớp quý tộc đã sụp đổ và trụy lạc. Những cây bút châm biếm bắt đầu ám chỉ rằng những đối thủ trên chính trường (hoặc thường xuyên hơn là vợ của họ) đã tham gia vào những quan hệ đồng tính nữ nhằm làm tổn hại thanh danh của họ. Có những tin đồn rằng [[Nữ hoàng Anne]] có một mối quan hệ mặn nồng với [[Sarah Churchill, Duchess of Marlborough|Sarah Churchill]], Nữ Công tước vùng Marlborough, cố vấn và người bạn tâm tình gần gũi nhất với bà. Sau khi bị thay thế và mất đi sự sủng ái của Nữ hoàng, bà ta đã cố ý tung ra những cáo buộc về việc Nữ hoàng có quan hệ với các thị nữ.<ref>Aldrich, p. 137.</ref> [[Marie Antoinette]] cũng từng là đối tượng của những suy đoán tương tự trong một vài tháng giữa những năm 1975 và 1976.<ref>Jennings, pp. 17–18.</ref>
 
===Nữ giả trang nam===
[[FileTập tin:Viola and the Countess - Frederick Richard Pickersgill.jpg|thumb|upright=1.0|Sử dụng hóa trang về giới như một công cụ trong các vở kịch vô cùng phổ biến trong thế kỉ 16 và 17, ví dụ như cảnh này giữa [[Viola (Twelfth Night)|Viola]] và [[Olivia (Twelfth Night)|Olivia]] từ vở ''[[Đêm Thứ Mười Hai]]'' vẽ bởi [[Frederick Richard Pickersgill|Frederick Pickersgill]] (1859).|alt=Painting of a Renaissance-era woman dressed as a man, standing and looking away, as a woman dressed as a woman holds the other's hand to her breast, looking imploringly at the other, set against a bucolic backdrop.]]
 
Sự không rõ ràng về giới tính đã xuất hiện trong các tài liệu y học đủ nhiều để được coi là một vấn đề được biết đến rộng rãi, mặc dù hiện tượng này hiếm khi xảy ra. Các yếu tố đồng tính trong văn học rất phổ biến, cụ thể là việc một giới tính giả trang thành một giới tính khác để lừa một người phụ nữ, khiến cho cô ấy không chút ngờ vực và bị quyến rũ. Những kỹ thuật dẫn truyện như vậy đã được dùng trong vở ''[[Đêm Thứ Mười Hai]]'' của [[Shakespeare]] (1601), ''[[Nữ chúa tiên]]'' của [[Edmund Spenser]] năm 1590, và ''[[Con chim trong lồng]]'' của [[James Shirley]] (1633).<ref>Jennings, pp. 1–11, 22–24.</ref> Trong [[thời kỳ Phục hưng]], người ta đã ghi lại được những trường hợp nữ giới khoác lên mình diện mạo của nam giới và đã không bị phát hiện trong nhiều năm hoặc nhiều thế kỷ, mặc dù những trường hợp này được phụ nữ đồng tính miêu tả là việc ăn mặc xuyên giới,<ref name=Dekker >{{citechú thích booksách|last1=Dekker|first1=Rudolf M.|last2=van de Pol|first2=Lotte C.|title=The Tradition of Female Transvestism in Early Modern Europe|date=1989|publisher=[[Palgrave Macmillan]]|location=London, United Kingdom|isbn=978-0333412527}}</ref><ref name=Lucas1988>{{cite journal|last1=Lucas|first1=R. Valerie|title="Hic Mulier": The Female Transvestite in Early Modern England|journal=[[Renaissance and Reformation]]|date=1988|volume=12|issue=1|pages=65–84|jstor=43445585|issn=0034429X}}</ref> hoặc được ngành xã hội học đương thời định rõ đặc điểm là của [[người chuyển giới]], là nguồn cơn của nhiều tranh cãi, và còn tùy thuộc vào những chi tiết của từng cá thể trong mỗi trường hợp.
 
Nếu bị phát hiện, hình phạt có thể thay đổi từ tử hình, cho tới việc bị trói trên [[giàn gông]], cho tới bị yêu cầu không bao giờ được ăn mặc như đàn ông một lần nữa. [[Henry Fielding]] đã viết một cuốn sách mỏng với tựa đề ''Bà chồng'' năm 1746, dựa trên cuộc đời của [[Mary Hamilton]], người đã bị bắt giữ vì kết hôn với một phụ nữ khi đang giả trang là một người đàn ông, và bị kết án chịu đánh roi công khai, và 6 tháng tù giam. Người ta cũng đã tìm ra những trường hợp tương tự: Catharine Linck ở Prussia năm 1717, bị hành hình năm 1721; Swiss Anne Grandjean kết hôn và chuyển đến Lyon sống cùng vợ, nhưng rồi sau đó bị vạch trần bởi một người phụ nữ mà cô từng có quan hệ tình ái trước đó, và bị kết án phải chịu gông và tù giam.<ref name="faderman54">Faderman, pp. 51–54.</ref>
Dòng 75:
[[Nữ hoàng Christina của Thụy Điển]] thường ăn mặc như đàn ông - điều được rất nhiều người biết đến, nhưng được bỏ qua vì xuất thân danh giá của bà. Bà được nuôi dạy như con trai, và tại thời điểm đó, có những suy đoán rằng bà có sự mơ hồ về giới tính. Ngay cả sau khi Christina thoái vị năm 1654 để trốn tránh một cuộc hôn nhân, bà cũng được biết là đã theo đuổi những mối quan hệ tình cảm với phụ nữ.<ref>Faderman, pp. 54–55.</ref>
 
Một số sử gia coi những trường hợp phụ nữ ăn mặc xuyên giới là sự biểu lộ mong muốn nắm giữ những quyền lực mà họ thường sẽ không thể có được khi ăn mặc như nữ giới, hoặc là cách thức để họ hợp lý hóa ham muốn của họ dành cho phụ nữ. Lilian Faderman đưa ra luận điểm rằng xã hội Tây phương bị đe dọa bởi những người phụ nữ đã chối từ vai trò giới nữ của họ. Catharine Linck và một số phụ nữ khác đã bị kết tội sử dụng dương vật giả, ví dụ như hai người nữ tu ở Tây Ban Nha thế kỷ XVI bị hành hình vì sử dụng “dụng cụ xác thịt”, bị trừng phạt nặng nề hơn những người đã không làm như vậy.<ref name="norton191" /><ref name="faderman54" /> Hai cuộc hôn nhân giữa phụ nữ được ghi nhận ở [[Cheshire]], Anh năm 1707 (giữa Hannah Wright và Anna Gaskill) và năm 1708 (giữa Ane Norton và Alice Pickford) và không hề có một bình luận nào về việc 2 đối tượng tham gia những cuộc hôn nhân này đều là nữ.<ref>Jennings, p. 30.</ref><ref name="Aldrich, p. 136">Aldrich, p. 136.</ref> Những báo cáo của các thành viên giáo hội với những tiêu chuẩn lỏng lẻo - những người chủ trì các đám cưới và đã viết lại những nghi hoặc của họ về một người trong cuộc hôn nhân - đã tiếp tục xuất hiện cho đến tận thế kỷ sau đó.
 
Ngoài châu u, phụ nữ có thể ăn mặc như đàn ông mà không bị phát hiện. [[Deborah Sampson]] đã chiến đấu trong cuộc [[Cách mạng Mỹ]] dưới cái tên Robert Shurtlieff, và theo đuổi những mối quan hệ với phụ nữ.<ref>Katz, pp. 212–214.</ref> [[Edward De Lacy Evans]] được sinh ra với giới tính nữ ở Ireland, nhưng đã lấy một cái tên của nam giới trên một chuyến tàu tới Úc và sống dưới thân phận một người đàn ông trong 23 năm ở Victoria, với 3 lần kết hôn.<ref>Aldrich, p. 224.</ref> Percy Redwood đã tạo nên một vụ tai tiếng ở New Zealand năm 1909 khi người ta phát hiện bà thực ra là [[Amy Bock]], và đã kết hôn với một người phụ nữ từ Cảng Malyneaux; báo chí đã tranh cãi liệu đó là một dấu hiệu của bệnh tâm thần hay một lỗi bẩm sinh về tính cách.<ref>Coleman, Jenny (2001). "Unsettled Women: Deviant Genders in Late Nineteenth and Early Twentieth Century New Zealand", ''Journal of Lesbian Studies'', '''5''' (1/2), pp. 13–26.</ref>
 
===Xem xét lại các mối quan hệ bạn bè lãng mạn===
[[FileTập tin:Women In Hammock romantic friendship.jpg|thumb|right|Sự thân mật giữa phái nữ được coi là thời thượng từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, mặc dù tính dục hiếm khi được thừa nhận công khai. (Ảnh chụp trong khoảng năm 1900.)|alt=Black and white photo of two women sitting in a hammock in turn of the 20th century dresses; one reclines and the other sits on her lap and wraps her arm around the other, both staring at each other.]]
 
Từ thế kỷ XVII đến XIX, việc một người phụ nữ bày tỏ một tình yêu nồng nhiệt cho một người phụ nữ khác được coi là hợp thời, được chấp nhận và khuyến khích.<ref name="Aldrich, p. 136" /> Những mối quan hệ như vậy được gọi là [[tình bạn lãng mạn]], [[hôn nhân Boston]], hoặc ''những người bạn đa cảm'', và rất phổ biến ở Mỹ, châu Âu, và đặc biệt là Anh. Việc lưu lại các tài liệu về những mối quan hệ như vậy trở nên khả thi nhờ vào một số lượng lớn thư từ giữa phụ nữ. Khả năng một mối quan hệ như vậy bao gồm yếu tố tình dục không phải là một vấn đề để đem ra bàn luận trước công chúng; nhưng phụ nữ có thể tạo nên những mối quan hệ bền chặt và chỉ có với một người duy nhất và vẫn được coi là đức hạnh, ngây thơ và trong trắng; trong khi một tình bạn tương tự với đàn ông có thể hủy hoại danh tiết của một người phụ nữ. Trên thực tế, những mối quan hệ như vậy đã được đề xướng như một sự thay thế hoặc luyện tập cho một cuộc hôn nhân của phụ nữ với một người đàn ông.<ref>Faderman (1981), pp. 74–77.</ref>{{efn|In a rare instance of sexuality being the focus of a romantic friendship, two Scottish schoolteachers in the early 19th century were accused by a student of visiting in the same bed, kissing, and making the bed shake. The student's grandmother reported the teachers to the authorities, who were skeptical that their actions were sexual in nature, or that they extended beyond the bounds of normal friendship: "Are we to say that every woman who has formed an intimate friendship and has slept in the same bed with another is guilty? Where is the innocent woman in Scotland?"<ref>Aldrich, p. 233.<name="aldrich233"/ref>}}
 
Một ví dụ là của [[Phu nhân Mary Wortley Montagu]], bà đã viết cho Anne Wortley vào năm 1709: “Chưa từng có ai là của nàng đầy trọn vẹn và chung thủy như vậy… Kể cả những người tình nhân của nàng, bởi không thể nào một người đàn ông lại có thể chân thành như ta.”<ref>Faderman (1981), p. 119.</ref> Tương tự, nhà thơ người Anh [[Anna Seward]] đã có một tình bạn khăng khít với [[Honora Sneyd]], chủ thể trong rất nhiều những bài sonnet và thơ của Seward. Khi Sneyd kết hôn bất chấp sự phản đối của Seward, giọng thơ của bà trở nên tức giận. Tuy nhiên, Seward vẫn tiếp tục viết về Sneyd rất lâu sau cái chết của bà ấy, tán dương vẻ đẹp của Sneyd và tình cảm cũng như tình bạn của họ.<ref>Faderman (1981), pp. 132–136.</ref> Khi còn trẻ, cây bút và triết gia [[Mary Wollstonecraft]] đã rất gắn bó với một người phụ nữ tên [[Fanny Blood]]. Khi viết cho một người phụ nữ mà cô cảm thấy như đã phản bội mình gần đây, Wollstonecraft tuyên bố rằng: “Những bông hồng sẽ nở rộ khi sự yên bình nằm trên ngực, và viễn cảnh được chung sống cùng Fanny của tôi khiến tim tôi tràn ngập vui sướng - cô không thể biết tôi yêu nàng chừng nào.”<ref>Faderman (1981), p. 139.</ref>{{efn|Wollstonecraft and Blood set up a girls' boarding school so they could live and work together, and Wollstonecraft named her first child after Blood. Wollstonecraft's first novel ''[[Mary: A Fiction]]'', in part, addressed her relationship with Fanny Blood.<ref>Foster, pp. 55–60.</ref>}}
 
[[FileTập tin:The Rt Honble Lady Eleanor Butler and Miss Ponsonby.jpg|thumb|[[Những quý bà vùng Llangollen]] Eleanor Butler và Sarah Ponsonby.<br />Hai người phụ nữ có một mối quan hệ được ca ngợi là tận tâm và đức hạnh, sau khi bỏ trốn và sống cùng nhau 51 năm tại Wales.|alt=An engraved drawing of Eleanor Butler and Sarah Ponsonby, known as the "Ladies of Llangollen". They are shown sitting in a private library wearing smoking jackets, with a cat in the foreground sitting in a chair.]]
 
Có lẽ tình bạn lãng mạn nổi tiếng nhất trong tất cả sẽ là giữa Eleanor Butler và Sarah Ponsonby, được gọi là [[Những quý bà vùng Llangollen]]. Butler và Ponsonby đã bỏ trốn cùng nhau năm 1778, trong sự nhẹ nhõm của gia đình Ponsonby (bởi lo lắng cho danh tiếng của họ nếu cô đã chạy trốn cùng một người đàn ông),<ref>Faderman, p. 75.</ref> để đến sinh sống ở Wales trong 51 năm và bị coi là lập dị.<ref>Aldrich, pp. 227–229.</ref> Câu chuyện của họ được coi là “đại diện cho tình bạn lãng mạn đức hạnh” và đã truyền cảm hứng cho thơ ca của Anna Seward và [[Henry Wadsworth Longfellow]].<ref>Jennings, pp. 45–46.</ref> Trong những cuốn nhật ký của mình, [[Anne Lister]], một người đã say đắm cặp đôi Butler và Ponsonby, đã ghi lại những mối quan hệ tình ái của cô với những người phụ nữ giữa những năm 1817 và 1840. Một số được viết dưới dạng mật mã, miêu tả chi tiết những mối quan hệ tình dục của cô với Marianna Belcombe và Maria Barlow.<ref>Castle, p. 390.</ref> Cả Lister và Eleanor Butler đều được coi là mang tính nam bởi những thông báo báo chí đương thời, và mặc dù có những nghi hoặc rằng mối quan hệ của họ về bản chất là quan hệ đồng tính nữ, họ vẫn được ngợi ca trong văn học.<ref name="aldrich233">Aldrich, p. 233.</ref><ref>Castle, pp. 339, 400.</ref>
Dòng 98:
==Bản dạng đồng tính nữ và vai trò giới của người đồng tính nữ trong nền văn hóa lịch sử phương Tây==
===Sự hình thành của bản dạng đồng tính nữ===
[[FileTập tin:Die Freundin April 30 1930.jpg|thumb|Cộng đồng người đồng tính nữ lớn mạnh của Berlin trong những năm 1920 đã xuất bản tạp chí ''[[Die Freundin]]'' từ năm 1924 đến năm 1933.|alt=Reproduction of a German magazine cover with the title "Die Freundin" showing a nude woman sitting on a horse, looking behind her.]]
 
Đối với một số phụ nữ, việc nhận ra rằng họ tham gia vào hành vi hay các mối quan hệ có thể được xem là đồng tính nữ khiến họ phủ nhận hoặc che dấu nó, ví dụ như giáo sư [[Jeannette Augustus Marks]] ở [[Đại học Mount Holyoke]], người đã sống với vị hiệu trưởng của trường đại học, [[Mary Emma Woolley|Mary Woolley]], trong 36 năm. Marks không tán thành việc những người phụ nữ trẻ theo đuổi những mối quan hệ “bất bình thường” và nhấn mạnh rằng chỉ có thể đạt được hạnh phúc với đàn ông.<ref name="aldrich239" />{{efn|Other historical figures rejected being labeled as lesbians despite their behavior: [[Djuna Barnes]], author of ''[[Nightwood]]'', a novel about an affair Barnes had with [[Thelma Wood]], earned the label "lesbian writer", which she protested by saying, "I am not a lesbian. I just loved Thelma." [[Virginia Woolf]], who modeled the hero/ine in ''[[Orlando (novel)|Orlando]]'' on [[Vita Sackville-West]], with whom she was having an affair, set herself apart from women who pursued relationships with other women by writing, "These Sapphists ''love'' women; friendship is never untinged with amorosity."<ref>Castle, pp. 4–5.</ref>}} Tuy nhiên, những người phụ nữ khác chấp nhận sự khác biệt và sử dụng sự độc đáo của họ để phân biệt mình với phụ nữ dị tính và đàn ông đồng tính.<ref>Zimmerman, p. 383.</ref>
Dòng 104:
Từ những năm 1890 đến những năm 1930, nữ thừa kế người Mỹ [[Natalie Clifford Barney]] tổ chức triển lãm nghệ thuật hàng tuần ở Paris, mời đến những ngôi sao lớn trong giới nghệ thuật và tập trung vào những chủ đề về đồng tính nữ. Kết hợp những ảnh hưởng của Hy Lạp với chủ nghĩa khiêu gợi đương đại của Pháp, cô đã cố gắng tạo ra một phiên bản hiện đại và lý tưởng hóa của Lesbos trong triển lãm của mình.<ref>Edsall, p. 234.</ref> Những người sống cùng thời kì với cô bao gồm họa sĩ [[Romaine Brooks]], người đã vẽ tranh về những người khác trong cùng hội nhóm; các nhà văn [[Colette]], [[Djuna Barnes]], người tổ chức những buổi tụ họp xã hội (social host) [[Gertrude Stein]], và tiểu thuyết gia [[Radclyffe Hall.]]
 
[[Berlin]] có một nền văn hóa đồng tính sôi động vào những năm 1920, và có khoảng 50 câu lạc bộ tồn tại để phục vụ người đồng tính nữ. Tạp chí ''[[Die Freundin]]'' (''Người Bạn Gái''), được xuất bản từ năm 1924 đến năm 1933, hướng đến những người đồng tính nữ. ''[[Garçonne (magazine)|Garçonne]]'' (hay ''Frauenliebe'' (''Tình yêu Phụ nữ'')) hướng tới những người đồng tính nữ và người nam ăn mặc [[xuyên giới]].<ref>Aldrich, pp. 241–244.</ref> Những ấn phẩm này được kiểm soát bởi những chủ sở hữu, nhà xuất bản, và người viết bài là nam giới. Vào khoảng năm 1926, [[Selli Engler]] thành lập ''[[Die BIF – Blätter Idealer Frauenfreundschaften]]'' (''BIF – Những Bài viết về Tình bạn Lý tưởng giữa Phụ nữ''), ấn phẩm đồng tính nữ đầu tiên được sở hữu, xuất bản và chắp bút bởi phụ nữ. Vào năm 1928, bản chỉ dẫn về quán bar và hộp đêm đồng tính nữ ''Berlins lesbische Frauen'' (''Những Người đồng tính nữ ở Berlin''), bởi [[Ruth Margarete Roellig|Ruth Margarite Röllig]]<ref>{{citechú thích web|author=Brendan|title=Berlin's Lesbische Frauen|url=http://www.cabaret-berlin.com/?p=546|website=Cabaret Berlin|date=Januaryngày 10, tháng 1 năm 2012|access-date=ngày 13 Junetháng 6 năm 2020|archive-url=https://web.archive.org/web/20200528125430/http://www.cabaret-berlin.com/?p=546|archive-date=ngày 28 Maytháng 5 năm 2020|url-status=live}} (originally published by ''Slow Travel Berlin'')</ref>, khiến thủ đô nước Đức thêm phần nổi tiếng như một trung tâm của hoạt động đồng tính nữ. Các câu lạc bộ đa dạng về thể loại, từ những cơ sở lớn đã trở thành điểm thu hút khách du lịch, đến những quán cà phê nhỏ trong khu vực, nơi phụ nữ tới để gặp mặt những người cùng giới khác. Bài hát mua vui quán bar ''[[Das lila Lied]]'' (tạm dịch: ''Bài ca Tím Oải hương'') trở thành bài hát đặc trưng cho người đồng tính nữ ở Berlin. Mặc dù đôi khi có được sự chấp nhận, đồng tính luyến ái là bất hợp pháp ở Đức và cơ quan thi hành luật sử dụng những buổi tụ tập có phép như một cơ hội để ghi lại tên tuổi những người đồng tính với mục đích tham khảo trong tương lai.<ref>Tamagne, pp. 53–57.</ref> Ủy ban Khoa học - Nhân đạo ([[Scientific - Humanitarian Committee]]) của Magnus Hirschfeld, một tổ chức thúc đẩy sự chấp nhận đối với những người đồng tính luyến ái ở Đức, đã hoan nghênh sự tham gia của những người đồng tính nữ. Kết quả, có thể nhận thấy rõ ràng sự xuất hiện của làn sóng các bài viết và hoạt động chính trị có chủ đề xoay quanh người đồng tính nữ trong phong trào nữ quyền ở nước [[Đức]].<ref>Edsall, pp. 230–231.</ref>
 
Năm 1928, Radclyffe Hall xuất bản một cuốn tiểu thuyết mang tên ''[[The Well of Loneliness]]'' (tạm dịch: Giếng Cô đơn). Cuốn sách có cốt truyện xoay quanh Stephen Gordon, một người phụ nữ xác định bản thân là người đảo ngược (hay đồng tính) sau khi đọc cuốn sách ''[[Psychopathia Sexualis (Richard von Krafft-Ebing book)|Psychopathia Sexualis]]'' của Krafft-Ebing, và sống trong không gian của nền tiểu văn hóa đồng tính ở Paris. Cuốn tiểu thuyết bao gồm lời nói đầu của Havelock Ellis, và được sáng tác nhằm mục đích kêu gọi sự khoan dung, chấp nhận cho người đảo ngược bằng cách công khai những thiệt thòi và bất hạnh của họ khi sinh ra đã là đảo ngược.<ref>Faderman (1981), p. 320.</ref> Hall tin vào những thuyết của Ellis và Krafft-Ebing, cũng như bác bỏ thuyết của [[Freud]] rằng [[sự hấp dẫn đồng tính]] bắt nguồn từ những tổn thương thời thơ ấu và có thể được chữa lành. Sự công khai mà Hall nhận được là kết quả của những hậu quả không có chủ ý; cuốn tiểu thuyết bị đưa ra xét xử ở London vì lí do dâm dục, một sự kiện tai tiếng thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng và được giáo sư Laura Doan miêu tả là “thời khắc kết tinh của quá trình xây dựng một nền tiểu văn hóa đồng tính nữ hữu hình ở nước Anh thời kì hiện đại”.<ref>Doan, p. XIII.</ref>
Dòng 110:
Các mẩu chuyện báo chí đã thẳng thắn tiết lộ rằng nội dung cuốn sách bao gồm “quan hệ tình dục giữa những người phụ nữ đồng tính”, và tại hầu hết các nhà phát hành báo chí lớn, trong suốt sáu tháng, những bức ảnh chụp Hall thường kèm theo các chi tiết về người đồng tính nữ.<ref>Doan, p. XV.</ref> Hall phản ánh diện mạo của một người phụ nữ “nam tính” vào những năm 1920: tóc cắt ngắn, vest may đo chỉnh tề (thường đi kèm quần dài), cùng với kính một tròng đã được biết đến rộng rãi như một dạng “đồng phục”. Khi những người phụ nữ nước Anh góp sức vào nỗ lực chiến tranh trong suốt cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, họ trở nên quen thuộc với trang phục nam tính, và được coi là yêu nước vì mặc đồng phục và quần dài. Sự nam tính hóa trong thời kì hậu chiến của phục trang phụ nữ chủ yếu được gắn liền với đồng tính nữ.<ref>Doan, pp. 64–66.</ref>
 
[[FileTập tin:Gladys Bentley.jpg|thumb|left|150px|[[Gladys Bentley]], một cư dân [[Harlem]] nổi tiếng bởi những giai điệu [[blues]] về các cuộc tình của bà với phụ nữ|alt=A publicity photo of a stout African American woman in white tuxedo with tails and top hat, carrying a cane and her signature in the lower right corner.]]
 
Ở Hoa Kì, những năm 1920 là thập kỉ của thử nghiệm xã hội, đặc biệt là với tình dục. Việc này chịu ảnh hưởng nặng nề từ các tác phẩm của [[Sigmund Freud]], người đã đưa ra những thuyết nói rằng ham muốn tình dục sẽ được thỏa mãn một cách vô thức, bất chấp mong muốn phớt lờ nó của cá nhân. Những thuyết của Freud được phổ biến ở Hoa Kì nhiều hơn ở Châu u. Với quan niệm của số đông cho rằng các hoạt động tình dục là một phần của đồng tính nữ và các mối quan hệ của họ, thử nghiệm tình dục trở nên phổ biến. Những thành phố lớn cung cấp cuộc sống về đêm được nhiều người ưa thích, và phụ nữ bắt đầu tìm kiếm các cuộc phiêu lưu tình ái. Song tính trở nên thời thượng, đặc biệt là trong những khu vực đồng tính đầu tiên của Mỹ.<ref>Faderman (1991), pp. 63–67.</ref>
Dòng 124:
 
===Chiến tranh Thế giới thứ II===
[[FileTập tin:Two women employees of North American Aviation, Incorporated, assembling a section of a wing for a P-51 fighter plane.jpg|thumb|Những kinh nghiệm trong lực lượng lao động và trong quân đội của phụ nữ trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai trao cho họ những lựa chọn về kinh tế và xã hội góp phần hình thành nền tiểu văn hóa đồng tính nữ.|alt=]]
[[FileTập tin:Black triangle.svg|thumb|right|150px|Những người phụ nữ không tuân theo lý tưởng về phụ nữ của Đảng Quốc xã bị bỏ tù và đánh dấu bằng một hình tam giác đen. Một số người đồng tính nữ giành lại biểu tượng này như cái cách người đồng tính nam giành lại hình tam giác hồng.|alt=An upside down black triangle. Women who did not conform to the Nazi ideal for women, which included lesbians, were imprisoned and labeled with the triangle.]]
[[FileTập tin:Pink triangle.svg|thumb|right|150px|Nhiều người đồng tính nữ giành lại nghĩa biểu tượng của hình tam giác hồng, mặc dù nó chỉ được áp dụng cho người đồng tính nam bởi Đảng Quốc xã.|alt=An upside down pink triangle. Though it was only applied to gay men by the Nazis, many lesbians reclaimed the symbolism of the pink triangle.]]
 
[[Chiến tranh Thế giới Thứ hai]] nổ ra, gây nên biến động vô cùng lớn trong cuộc sống của người dân bởi điều động quân sự đã ảnh hưởng đến hàng triệu nam giới. Phụ nữ cũng được chấp nhận vào quân đội trong Quân đoàn Phụ nữ Hoa Kì ([[Women’s Army Corps]]) (WACs) và Binh chủng Phụ nữ được Chấp nhận cho Tình nguyện Khẩn cấp ([[Women Accepted for Volunteer Emergency Service]]) (WAVES) của Hải quân Hoa Kì. Khác với các quy trình sàng lọc đồng tính nam đã được áp dụng từ khi hình thành quân đội Mỹ, chưa có một phương pháp nào để xác định hay sàng lọc đồng tính nữ; chúng được đưa vào áp dụng một cách từ từ trong Thế chiến Thứ hai. Bất chấp các quan điểm thường thấy về vai trò truyền thống của phụ nữ trong những năm 1930, những người phụ nữ độc lập và nam tính được quân đội trực tiếp tuyển dụng trong những năm 1940, và sự yếu đuối không được khuyến khích<ref name="Berube, pp. 28–33">Berube, pp. 28–33.</ref>
Dòng 134:
Những người phụ nữ nam tính nhất không thực sự là điều thường thấy, nhưng họ lại dễ xuất hiện nổi bật, nên có xu hướng thu hút những phụ nữ đang tìm kiếm những người đồng tính nữ khác. Phụ nữ phải thận trọng trong việc tiết lộ về hứng thú với nữ giới, đôi khi mất nhiều ngày để có thể hình thành được sự thấu hiểu mà không phải hỏi trực tiếp hay nói ra một cách thẳng thắn.<ref>Berube, p. 100.</ref> Những người phụ nữ không nhập ngũ được quyết liệt kêu gọi tham gia vào những công việc của ngành công nghiệp đã bị nam giới bỏ lại, nhằm mục đích tiếp tục tăng năng suất quốc gia. Sự gia tăng của tính linh động, sự tinh tế, và tính tự chủ của rất nhiều phụ nữ trong và sau cuộc chiến tạo điều kiện cho phụ nữ sống mà không cần có chồng, một điều bất khả trong những điều kiện kinh tế và xã hội khác, tiếp tục định hình nên các mạng lưới và môi trường đồng tính nữ.<ref>Faderman (1991), pp. 129–130.</ref>
 
Người đồng tính nữ không được bao gồm trong [[Đoạn 175]], một đạo luật ở Đức liệt hoạt động đồng tính luyến ái giữa nam giới vào hành vi phạm tội. Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust Hoa Kì ([[The United States Holocaust Memorial MMuseum]]) (USHMM) đã quy lí do cho việc nữ giới bị nhìn nhận là yếu kém hơn nam giới, và nhà nước Đức Quốc xã lo ngại về người đồng tính nữ ít hơn người đồng tính nam. Tuy nhiên, USHMM cũng nói rằng rất nhiều phụ nữ đã bị bắt và bỏ tù vì hành vi “phi xã hội”, một cái mác được gán cho những người phụ nữ không tuân theo hình tượng người phụ nữ lý tưởng của Đức Quốc xã: nấu ăn, dọn dẹp, làm việc bếp núc, nuôi con, và thụ động. Những người phụ nữ này được đánh dấu bằng một hình tam giác màu đen.<ref name=USHMM1>{{citechú thích web|title=LESBIANS AND THE THIRD REICH|url=http://www.ushmm.org/wlc/en/article.php?ModuleId=10005478|website=ushmm.org|publisher=USHMM|access-date=ngày 16 Januarytháng 1 năm 2015}}</ref> Một số người đồng tính nữ đã giành lại cho mình biểu tượng này, cũng như cái cách mà người đồng tính nam giành lại hình tam giác hồng. Nhiều người đồng tính nữ cũng đã giành lại tam giác hồng.<ref>{{Citechú thích newsbáo|url=http://remember.org/educate/elman|title=Triangles and Tribulations: The Politics of Nazi Symbols {{!}}|language=en-US|access-date=2016-12-10|archive-url=https://web.archive.org/web/20161220110705/http://remember.org/educate/elman|archive-date=2016-12-20|url-status=dead}}</ref>
 
===Những năm hậu chiến===
[[FileTập tin:The Ladder, October 1957.jpg|thumb|upright|Ấn bản đầu tiên vào năm 1975 của ''[[The Ladder (magazine)|The Ladder]]'', được gửi đến hàng trăm phụ nữ ở khu vực San Francisco, thúc giục phụ nữ cởi bỏ những tấm mặt nạ.|alt=A drawn illustrated magazine cover of a woman in half shadow with short, wavy hair holding a harlequin mask under the title "The Ladder" and the date "October 1957" underneath it.]]
 
Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, ở Hoa Kì xuất hiện phong trào thúc ép việc quay trở lại với xã hội tiền chiến càng nhanh càng tốt trên quy mô toàn quốc.<ref>Adam, p. 56.</ref> Khi kết hợp với hoang tưởng quốc gia ngày càng tăng về [[chủ nghĩa cộng sản]] và thuyết phân tâm—thứ đã trở nên phổ biến trong kiến thức y khoa, đồng tính luyến ái trở thành một đặc điểm không đáng mong muốn ở các nhân viên làm việc cho chính phủ Hoa Kì vào năm 1950. Những người đồng tính được cho là những mục tiêu dễ dàng cho hành vi hăm dọa, [[tống tiền]], và chính phủ đã loại bỏ hoàn toàn những người đồng tính công khai khỏi các cấp bậc việc làm, khởi đầu cho nỗ lực lan rộng trong việc thu thập thông tin tình báo về đời tư của nhân viên.<ref>Edsall, p. 277.</ref> Chính quyền bang và địa phương nhanh chóng làm theo, bắt giữ những người tụ tập trong các quán bar và công viên, đồng thời ban hành luật cấm đảo trang đối với đàn ông và phụ nữ.<ref>Adam, p. 59.</ref>
Dòng 150:
DOB lan rộng ra đến Chicago, New York, và Los Angeles, và tạp chí ''The Ladder'' được gửi đến hàng trăm—và cuối cùng là hàng ngàn—thành viên của DOB, thảo luận về bản chất của đồng tính luyến ái, đôi khi thách thức quan điểm cho rằng đó là một căn bệnh, với độc giả đưa ra những lý do cá nhân giải thích vì sao họ lại là đồng tính nữ và gợi ý những cách để đương đầu với tình trạng đó hoặc với phản ứng của xã hội với nó.<ref name="esterberg" /> Tiếp nối tạp chí này, bắt đầu vào năm 1964, những người đồng tính nữ ở Anh cho xuất bản ''[[Arena Three (magazine)|Arena Three]]'' với sứ mệnh tương tự.<ref>Jennings, pp. 153–158.</ref>
 
[[FileTập tin:Thirdsex bookcover 1959.jpg|thumb|upright|Mặc dù được quảng bá hướng tới nam giới dị tính, tiểu thuyết ba xu đồng tính nữ cung cấp một bản dạng cho những người phụ nữ bị tách biệt trong những năm 1950.|alt=A brightly painted book cover with the title "The Third Sex", with a sultry blonde wearing a red outfit showing cleavage and midriff seated on a sofa, while a redhead with short hair places her hand on the blonde's shoulder and leans over her, also displaying cleavage wearing a white blouse with rolled-up sleeves.]]
 
====Phân chia Butch và femme====
Dòng 169:
 
[[Cuộc cách mạng tình dục]] vào những năm 1970 đã đưa ra sự phân biệt giữa bản dạng và hành vi tình dục ở nữ giới. Nhiều phụ nữ đã tận dụng sự tự do xã hội mới mẻ này để thử những trải nghiệm mới. Những phụ nữ trước đây tự nhận là dị tính đã thử quan hệ tình dục với phụ nữ, mặc dù nhiều người tiếp tục duy trì bản dạng dị tính.<ref>Faderman (1991), p. 203.</ref> Tuy nhiên, với sự ra đời của [[làn sóng nữ quyền thứ hai]], đồng tính nữ phát triển thành một bản dạng mang tính chính trị, được dùng để miêu tả một triết lý xã hội giữa những người phụ nữ, và thường làm lu mờ đi vai trò quyết định của ham muốn tình dục trong định nghĩa. Một tổ chức đấu tranh cho nữ quyền mang tên [[Radicalesbians]] đã xuất bản một bản tuyên ngôn vào năm 1970 mang tựa “[[The Woman-Identified Woman]]” (tạm dịch: “Người Phụ nữ với Nhân dạng Phụ nữ”), tuyên bố rằng “Một người đồng tính nữ là sự phẫn nộ của tất cả phụ nữ bị dồn nén lại đến điểm bùng nổ” (“A lesbian is the rage of all women condensed to the point of explosion”).<ref>Schlager, p. 70.</ref>{{efn|A similar statement appeared in a militant feminist pamphlet in [[Leeds, England]], stating "Our definition of a political lesbian is a woman-identified woman who does not fuck men. It does not mean compulsory sexual activity with women."<ref>Jennings, p. 177.</ref> See: [[Leeds Revolutionary Feminist Group]]}}
 
 
Những nhà đấu tranh cho nữ quyền thể hiện sự khinh miệt đối với một xã hội vốn dĩ phân biệt giới tính và tuân theo chế độ phụ quyền, và kết luận rằng cách thức hiệu quả nhất để khắc phục phân biệt giới tính và đạt được sự bình đẳng cho phụ nữ là từ chối trao cho đàn ông bất cứ quyền lực hay khoái cảm nào từ phụ nữ. Đối với những phụ nữ tin theo triết lý này—tự xưng là những nhà nữ quyền-đồng tính nữ—đồng tính nữ là một thuật ngữ được dùng bởi nữ giới để miêu tả bất cứ người phụ nữ nào cống hiến cách tiếp cận về mặt giao tiếp xã hội và động lực chính trị cho quyền lợi của phụ nữ. Trọng tâm chính trị, chứ không phải ham muốn tình dục, mới là đặc trưng quyết định của một nhà nữ quyền-đồng tính nữ. Độc lập khỏi những người đàn ông có vai trò như những kẻ áp bức là tư tưởng trung tâm của chủ nghĩa nữ quyền-đồng tính nữ, và nhiều người tin vào chủ nghĩa này cố gắng tách biệt mình khỏi nền văn hóa trọng nam về mặt thể chất cũng như kinh tế. Trong một xã hội lý tưởng, có tên Lesbian Nation (tạm dịch: Đồng tính Nữ Quốc), “phụ nữ” và “đồng tính nữ” có thể được dùng thay thế cho nhau.<ref>Faderman (1991), pp. 218–219.</ref>
 
 
Mặc dù chủ nghĩa nữ quyền-đồng tính nữ là một sự biến chuyển lớn, không phải người đồng tính nữ nào cũng ủng hộ nó. Chủ nghĩa nữ quyền-đồng tính nữ là một phong trào hướng tới những người trẻ tuổi: các thành viên chủ yếu đều được học đại học, với kinh nghiệm trong sự nghiệp phát triển mang tính chất [[Cánh tả Mới]] và cấp tiến, nhưng họ không thành công trong việc thuyết phục những tổ chức cấp tiến giải quyết các vấn đề của phụ nữ.<ref>Schlager, p. 11.</ref> Nhiều người đồng tính nữ thuộc thế hệ lớn tuổi, những người đã thừa nhận tính dục của họ trong các thời kì bảo thủ hơn, cảm thấy rằng duy trì cách thức đối phó của họ trong một thế giới ghét sợ đồng tính là phù hợp hơn cả. [[Daughters of Bilitis]] đã phải ngừng hoạt động vào năm 1970 vì sự phân chia ý kiến về hướng đi: vấn đề nữ quyền hay vấn đề quyền người đồng tính.<ref>Esterberg, Kristen (September, 1994). "From Accommodation to Liberation: A Social Movement Analysis of Lesbians in the Homophile Movement." ''Gender and Society'', '''8''', (3) pp. 424–443.</ref>
Hàng 190 ⟶ 188:
Mặc dù tác giả của cuốn Islamic Homosexualities từng phản biện rằng điều này không có nghĩa là phụ nữ không thể có một mối quan hệ đồng tính nữ với một người phụ nữ khác, một nhà nhân chủng học đồng tính nữ đã đến [[Yemen]] vào năm 1991 và ghi nhận rằng phụ nữ trong thị trấn mà cô ghé thăm không có khái niệm gì về mối quan hệ tình cảm của cô với một người phụ nữ khác. Phụ nữ ở Pakistan được mong đợi phải lấy một người đàn ông không bị tước quyền công dân. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn có thể có mối quan hệ mật thiết với phụ nữ khác miễn là họ hoàn thành bổn phận người vợ, giữ kín các vấn đề riêng tư, và người phụ nữ kia có quan hệ nào đó với gia đình hoặc có sự hứng thú hợp lý với người tình.<ref>Murray and Roscoe, pp. 283–284.</ref>
 
Những người tự nhận hoặc tham gia hoạt động đồng tính nữ ở khu vực có thể bị bạo hành gia đình và sự đàn áp xã hội, bao gồm hành vi thường được gọi là "[[giết người vì danh dự.]]" Lời bào chữa của kẻ sát nhân thường liên quan đến sự suy đồi về tình dục, sự nhơ nhớp vì mất trinh tiết (ngoài khuôn khổ hôn nhân được chấp nhận) và chủ yếu nhằm vào các nạn nhân nữ.<ref>{{citechú newsthích báo|author=Robert Fisk|date=ngày 7 Septembertháng 9 năm 2010|title=Robert Fisk: The crimewave that shames the world|newspaper=The Independent|location=London|url=https://www.independent.co.uk/opinion/commentators/fisk/the-crimewave-that-shames-the-world-2072201.html|access-date=ngày 8 Septembertháng 9 năm 2010}}</ref>
 
===Vùng Châu Mỹ===
Một số [[dân tộc người châu Mỹ bản địa]] gán [[giới thứ ba]] cho những phụ nữ ăn mặc và thực hiện những vai trò thường thuộc về đàn ông trong văn hóa của họ.<ref name=Vowel-1>{{citechú thích booksách|last1=Vowel|first1=Chelsea|title= Indigenous Writes: A Guide to First Nations, Métis & Inuit Issues in Canada|date=2016|publisher=Highwater Press|location=Winnipeg, Manitoba, Canada|isbn=978-1553796800|chapter=All My Queer Relations - Language, Culture, and [[Two-Spirit]] Identity}}</ref><ref name=NCIA>{{cite journal|last1=Pruden|first1=Harlan|last2=Edmo|first2=Se-ah-dom|title=Two-Spirit People: Sex, Gender & Sexuality in Historic and Contemporary Native America|journal=National Congress of American Indians Policy Research Center |date=2016|url=http://www.ncai.org/policy-research-center/initiatives/Pruden-Edmo_TwoSpiritPeople.pdf}}</ref> Trong những trường hợp khác, họ xem giới như một phổ và sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau cho người nữ nữ tính và người nữ nam tính.<ref name=Estrada>{{cite journal|last1=Estrada|first1=Gabriel|title=''Two Spirits'', ''Nádleeh'', and LGBTQ2 Navajo Gaze|journal=American Indian Culture and Research Journal|date=2011|volume=35|issue=4|pages=167–190|doi=10.17953/aicr.35.4.x500172017344j30|url=https://www.scribd.com/document/318264790/Two-Spirits-Nadleeh-and-Navajo-LGBTQ2-Gaze-pdf}}{{Dead link|date=September 2018 |bot=InternetArchiveBot |fix-attempted=yes }}</ref> Tuy nhiên, những bản dạng đó bắt nguồn từ bối cảnh đời sống văn hóa và nghi lễ của các nền văn hóa bản địa cụ thể, và “chỉ đơn giản là người đồng tính và người bản địa không biến một người thành người hai tâm hồn.”<ref name=NYT2>{{citechú newsthích báo|url=https://www.nytimes.com/2006/10/08/fashion/08SPIRIT.html|title=A Spirit of Belonging, Inside and Out|newspaper=The New York Times|date=8 Oct 2006|access-date=ngày 28 Julytháng 7 năm 2016 |quote='The elders will tell you the difference between a gay Indian and a Two-Spirit,' [Criddle] said, underscoring the idea that simply being gay and Indian does not make someone a Two-Spirit.}}</ref> Những vai trò xã hội và nghi lễ, được thực hiện và xác nhận bởi những người già làng trong bộ tộc, “không hợp lý” khi được xem xét dưới góc nhìn của người không thuộc bộ tộc về xu hướng tính dục và bản dạng giới.<ref name=NCIA/> Thay vào đó, chúng phải được xem xét dưới góc nhìn của người bản địa, với tư cách là vai trò xã hội, tinh thần và truyền thống được người trong bộ tộc bản địa nắm giữ.<ref name=NYT2NCIA/><ref name=NCIANYT2/><ref name=Pember>{{citechú thích web|url=https://rewire.news/article/2016/10/13/two-spirit-tradition-far-ubiquitous-among-tribes/|title='Two Spirit' Tradition Far From Ubiquitous Among Tribes|publisher=[[Rewire (website)|Rewire]]|first=Mary Annette |last=Pember |date=Oct 13, 2016|access-date=Octoberngày 17, tháng 10 năm 2016 |quote= Unfortunately, depending on an oral tradition to impart our ways to future generations opened the floodgates for early non-Native explorers, missionaries, and anthropologists to write books describing Native peoples and therefore bolstering their own role as experts. These writings were and still are entrenched in the perspective of the authors who were and are mostly white men.}}</ref>
 
Ở khu vực [[Mĩ Latinh]], đồng tính nữ và các hiệp hội đồng tính nữ bắt đầu được nhận biết vào những năm 1970 và ngày càng tăng trong khi nhiều quốc gia đang chuyển sang hoặc cải cách chế độ dân chủ. Sự quấy rối và đe dọa thường được thấy kể cả ở những nơi đồng tính luyến ái là hợp pháp, và những điều luật chống lại quấy rối trẻ em, đạo đức, hoặc “những cách tốt” (lỗi về đạo đức hoặc cách cư xử), bị lợi dụng để hãm hại người đồng tính.<ref name="Mogrovejo">Mogrovejo, Norma (2004). "Relevancia de las lesbianas en América Latina: la recuperación de nuestra historia" (Relevance of lesbians in Latin America: the recovery of our history). In Drucker, Péter; Mercad, Enrique. ''Arco iris diferentes''. Siglo XXI. {{ISBN|978-968-23-2486-4}}. (In Spanish) p. 103.</ref> Theo góc nhìn của người Tây Ban Nha, sự mâu thuẫn giữa hội chứng ghét sợ người đồng tính nữ của một số nhà nữ quyền và sự khinh thường phụ nữ của người đồng tính nam đã gây ra khó khăn cho người đồng tính nữ và các nhóm liên quan.<ref name="Mogrovejo 2004 pp85–100">Mogrovejo (2004), pp. 85–100.</ref>
Hàng 212 ⟶ 210:
Gần sông [[Congo]], một phụ nữ có mối quan hệ tình cảm hoặc tình dục mãnh liệt với một phụ nữ khác trong bộ tộc [[Nkundo]] được gọi là ''yaikya bonságo'' (một người nữ tiếp xúc với một người nữ khác). Các mối quan hệ đồng tính nữ cũng được tìm thấy trong các xã hội mẫu hệ ở [[người Akan]] ở [[Ghana]]. Ở [[Lesotho]], nữ giới tham gia vào những hành vi thường được người phương Tây xem là hoạt động tình dục: hôn, ngủ chung, cọ xát bộ phận sinh dục, quan hệ bằng miệng, và duy trì mối quan hệ một cách thận trọng với những người phụ nữ khác. Bởi người Lesotho tin rằng muốn quan hệ tình dục cần phải có dương vật, họ không xem hành vi giữa những người phụ nữ là quan hệ tình dục và không nhận họ là đồng tính nữ.<ref>Aldrich, pp. 237–238.</ref>
 
Ở Nam Phi, những người đồng tính nữ bị những người nam dị tính cưỡng hiếp nhằm trừng phạt những hành vi “bất thường” và củng cố các chuẩn mực xã hội.<ref name="Actionaid">{{citechú thích web|last=Martin|first=A|author2=Kelly A|author3=Turquet L|author4=Ross S|title=Hate crimes: The rise of 'corrective rape' in South Africa|url=http://www.actionaid.org.uk/doc_lib/correctiveraperep_final.pdf|publisher=[[ActionAid]]|year=2009|pages=1–2|access-date=Aprilngày 16, tháng 4 năm 2012|archive-url=https://www.webcitation.org/6FenWRBzx?url=http://www.actionaid.org.uk/doc_lib/correctiveraperep_final.pdf|archive-date=Aprilngày 5, tháng 4 năm 2013|url-status=dead}}</ref> Lần đầu được ghi nhận ở Nam Phi,<ref name="Janoff">Janoff, Douglas. ''Pink Blood: Homophobic Violence in Canada.'' Toronto: University of Toronto, 2005.</ref> nơi đôi khi những thành viên trong gia đình nạn nhân hay người địa phương chứng kiến tội ác ấy.<ref name="Bartle">{{cite journal|last=Bartle|first=EE|title=Lesbians And Hate Crimes|journal=Journal of Poverty|volume=4|issue=4|year=2000|pages=23–44|doi=10.1300/J134v04n04_02|s2cid=144939243}}</ref> Việc cưỡng hiếp còn là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhiễm [[HIV]] ở đồng tính nữ ở Nam Phi.<ref name="Actionaid" /> ''[[Cưỡng hiếp sửa chữa]]'' không được hệ thống luật pháp Nam Phi bấy giờ xem như [[tội ác thù ghét]] dù cho [[Hiến pháp Nam Phi]] tuyên bố rằng không người nào nên bị phân biệt bởi [[địa vị xã hội]] và bản dạng, bao gồm cả xu hướng tính dục.<ref name="Mieses">Mieses, Alexa. "Gender Inequality and Corrective Rape of Women Who Have Sex with Women." ''GMHC Treatment Issues'' (2009): 1–3.</ref><ref name=RapeCNN>{{citechú thích web|title=Corrective rape: The BackStory|url=https://www.cnn.com/videos/international/2011/10/31/bs-mabuse-corrective-rape.cnn|website=[[CNN]]|date=Octoberngày 31, tháng 10 năm 2011}}</ref><ref name="CNN">{{citechú thích web|title=They call it 'corrective rape'|url=https://www.cnn.com/videos/international/2011/11/07/worlds-untold-stories-corrective-rape-a.cnn|website=[[CNN]]|date=Novemberngày 7, tháng 11 năm 2011}}</ref> Theo luật pháp, Nam Phi bảo vệ quyền của người đồng tính trên mọi phương diện. Tuy nhiên, chính phủ chưa từng chủ động ngăn chặn hiếp dâm sửa chữa, và phụ nữ không đặt chút lòng tin nào vào cảnh sát và khả năng điều tra của họ.<ref name="Di">Di Silvio, Lorenzo. "Correcting Corrective Rape: Carmichele and Developing South Africa's Affirmative Obligations To Prevent Violence Against Women." ''Georgetown Law Journal'' 99 (2011): 1469–515.</ref><ref name="Mabuse">{{citechú thích web|last1=Mabuse|first1=Nkepile|title=Horror of South Africa's 'corrective rape'|url=https://edition.cnn.com/2011/10/27/world/wus-sa-rapes/|website=[[CNN]]|date=Octoberngày 28, tháng 10 năm 2011}}</ref>
 
Theo báo cáo, số các vụ hiếp dâm sửa chữa đang ngày càng nhiều ở Nam Phi. Tổ chức phi lợi nhuận “Luleki Sizwe” ở Nam Phi ước tính rằng khoảng hơn 10 người đồng tính nữ bị cưỡng hiếp hoặc cưỡng hiếp tập thể hàng tuần.<ref name="Contemporary Sexuality">"South African lesbians at risk for 'corrective rape'. ''Contemporary Sexuality.'' 45.7 (2011): 8.</ref> Trong 1 nghiên cứu xuất bản bởi Triangle Project vào năm 2008, hàng năm, ít nhất 500 người đồng tính nữ là nạn nhân của hiếp dâm sửa chữa và 86% người đồng tính nữ da đen ở [[Mũi Tây]] sống cùng nỗi sợ bị [[tấn công tình dục]].<ref name="Di" /> Những người nạn nhân của hiếp dâm sửa chữa ít khi tố cáo những tội ác bởi vì xã hội mà họ sống có cái nhìn tiêu cực về đồng tính luyến ái.<ref name="Di" />
 
===Châu Á===
[[FileTập tin:Two Japanese women make love.jpg|thumb|Một bức [[Shunga (art)|shunga]] hay (xuân họa) in khắc gỗ từ Nhật Bản miêu tả cảnh hai người phụ nữ đang quan hệ tình dục.|alt=]]
 
Trung Quốc trước thời kỳ Tây hóa cũng là một xã hội phân biệt nam với nữ. Xã hội Trung Quốc cổ chưa từng thừa nhận khái niệm xu hướng tính dục, hay một khuôn khổ phân chia mỗi người dựa trên sự hấp dẫn đồng giới hay khác giới.<ref>Sullivan and Jackson, p. 29.</ref> Mặc dù có những vai trò xã hội quan trọng cho người đồng tính nam, phụ nữ không có vai trò gì cả. Ngoài nghĩa vụ sinh con, phụ nữ được xem như không có tính dục.<ref>Aldrich, p. 311.</ref>
Hàng 231 ⟶ 229:
==Nhân khẩu học==
===Báo cáo Kinsey===
[[FileTập tin:Kinsey Scale.svg|thumb|[[Thang đo Kinsey]] về phản ứng tình dục chỉ cho thấy [[dị tính]] và [[đồng tính]], với nhiều mức độ [[song tính]] ở giữa.|alt=A graph with seven columns labeled 0 to 6. The 0 column is "exclusively heterosexual" and is shown completely white. A gradient line showing the varying degrees of bisexual responses starts at the beginning of column 1 and rises to the end of column 5. Column 6 is "exclusively homosexual" and is shown filled with the color blue.]]
 
Nghiên cứu lớn nhất và sớm nhất về đồng tính nữ là bản báo cáo chuyên sâu về trải nghiệm tình dục của phụ nữ Mỹ năm 1953 bởi [[Viện Nghiên cứu Tình dục]]. Hơn 8000 phụ nữ được phỏng vấn bởi [[Alfred Kinsey]] cùng các nhân viên của Viện trong một cuốn sách mang tên ''[[Hành vi tình dục ở nữ giới]]'', còn được biết tới như một phần của Báo cáo Kinsey. Cuộc thảo luận gay gắt của Báo cáo Kinsey về đồng tính luyến ái như là một hành vi tình dục của con người mang tính cách mạng. Trước khi có nghiên cứu này, chỉ có các nhà vật lý học và tâm thần học mới nghiên cứu về hành vi tình dục, và kết quả gần như luôn được giải thích dưới góc nhìn đạo đức.<ref name="bullough">Bullough, Vern (May 1998). "Alfred Kinsey and the Kinsey Report: Historical Overview and Lasting Contribution", ''The Journal of Sex Research'', '''35''' (2), pp. 127–131.</ref>
Hàng 237 ⟶ 235:
Kinsey và nhân viên ghi nhận rằng 28% phụ nữ đã từng bị kích thích bởi một phụ nữ khác, và 19% đã từng có quan hệ tình dục với một phụ nữ khác.<ref>Kinsey, p. 453.</ref>{{efn|Sexual contact, according to Kinsey, included lip kissing, deep kissing, body touching, manual breast and genital stimulation, oral breast and genital stimulation, and object-vaginal penetration.<ref>Kinsey, pp. 466–467.</ref>}} Đối với những người phụ nữ đã có quan hệ tình dục với người phụ nữ khác, từ một nửa tới 2/3 đã đạt [[cực khoái]]. Phụ nữ độc thân có tỷ lệ tham gia hoạt động tình dục đồng giới cao nhất, theo sau là góa phụ, ly hôn hoặc ly thân. Tỷ lệ tham gia hoạt động tình dục đồng tính thấp nhất là ở phụ nữ đã có gia đình; những người đã từng có trải nghiệm đồng tính cho biết họ kết hôn để ngừng những hoạt động đồng tính.<ref>Kinsey, pp. 453–454.</ref>
 
Hầu hết những người phụ nữ cho biết đã từng có quan hệ tình dục đồng giới chưa từng trải nghiệm hơn 10 lần. 51% phụ nữ tiết lộ rằng họ chỉ có 1 bạn tình.<ref>Kinsey, p. 458.</ref> Phụ nữ có học sau đại học có tỷ lệ trải nghiệm tình dục đồng giới cao hơn, theo sau là phụ nữ đi học đại học và cao đẳng; thấp nhất là phụ nữ không học quá lớp 8.<ref>Kinsey, p. 460.</ref> Tuy nhiên, phương pháp chọn mẫu của Kinsey bị chỉ trích.<ref>{{Citechú newsthích báo|last1=Leonhardt|first1=David|title=John Tukey, 85, Statistician; Coined the Word 'Software'|url=https://www.nytimes.com/2000/07/28/us/john-tukey-85-statistician-coined-the-word-software.html|work=[[The New York Times]]|date=Julyngày 28, tháng 7 năm 2000|author-link=David Leonhardt}}</ref><ref>{{citechú thích web|title=Biography 15.1, ''John W. Tukey'' (1915–2000)|url=http://www.swlearning.com/quant/kohler/stat/biographical_sketches/bio15.1.htm|website=South-Western Educational Publishing|date=2003|access-date=ngày 19 Maytháng 5 năm 2009}}{{Dead link|date=September 2019 |bot=InternetArchiveBot |fix-attempted=yes }} John Tukey criticizes sample procedure</ref>
 
Dựa trên thang đo của Kinsey, 0 đại diện cho người “hoàn toàn dị tính” và 6 đại diện cho người “hoàn toàn đồng tính”, còn những số ở giữa 0 và 6 đại diện cho mức độ hấp dẫn đối với 2 giới tính, 6% người được phỏng vấn xếp mình vào số 6: hoàn toàn đồng tính. Ngoài những người xếp vào 0 (71%), 1 chiếm tỉ lệ cao nhất giữa 0 và 6 (khoảng 15%).<ref name="rating">Kinsey, pp. 468–473.</ref> Tuy nhiên, Báo cáo Kinsey nhận xét rằng bảng xếp hạng này mô tả một giai đoạn trong cuộc đời một người, và rằng xu hướng tính dục của một người có thể thay đổi.<ref name="rating" /> Trong số các lời chỉ trích dành cho Báo cáo Kinsey, có một chỉ trích nhắm thẳng vào xu hướng chọn mẫu số liệu của Viện Nghiên cứu Tình dục, thúc đẩy các nhà nghiên không tuân thủ các tiêu chuẩn của Kinsey về dữ liệu thể hiện các mối quan hệ đồng giới quá mức.<ref name="bullough" />
Hàng 249 ⟶ 247:
Theo một khảo sát dành cho những người lớn có hoạt động tình dục trong năm qua vào năm 2000 của [[Trung tâm Khảo sát Ý kiến Quốc gia]], số người đồng tính nữ ở Hoa Kỳ chiếm khoảng 2.6% dân số.<ref name="almanac">Wright, John, ed. "Homosexuality in the U.S., 1998–2000", ''The New York Times Almanac'' (2009), Penguin Reference. {{ISBN|0-14-311457-3}}, p. 314.</ref> Một cuộc khảo sát các cặp đôi đồng giới ở Hoa Kỳ cho thấy rằng giữa 2000 và 2005, số người tự nhận đang trong một mối quan hệ đồng giới tăng lên 30% - gấp 5 lần tốc độ tăng trưởng dân số Hoa Kỳ. Nghiên cứu này tạo cho mọi người sự cởi mở công nhận bản thân là người đồng tính với chính phủ liên bang.{{efn|The study estimated the total population of gays, lesbians, and bisexuals at 8.8 million, but did not differentiate between men and women.<ref>Gates, Gary [October 2006]. "Same-sex Couples and the Gay, Lesbian, Bisexual Population: New Estimates from the American Community Survey", [http://www.law.ucla.edu/williamsinstitute/home.html The Williams Institute on Sexual Orientation Law and Public Policy], [[University of California Los Angeles]], pp. 1–25.</ref>}}
 
Chính phủ của Vương quốc Anh không yêu cầu người dân định nghĩa xu hướng tính dục của họ. Tuy nhiên, theo một khảo sát của [[Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh]] (ONS) vào năm 2010, 1.5% người Anh tự nhận mình là đồng tính hoặc song tính, và ONS cho rằng kết quả này phù hợp với các cuộc khảo sát khác cho kết quả nằm giữa 0.3% và 3%.<ref>{{citechú thích web|title=Measuring Sexual Identity : Evaluation Report, 2010|url=http://www.ons.gov.uk/ons/rel/ethnicity/measuring-sexual-identity---evaluation-report/2010/index.html|publisher=[[Office for National Statistics]]|date=ngày 23 Septembertháng 9 năm 2010}}</ref><ref name="more-or-less-2010-10-01">{{citechú thích web|last=Harford|first=Tim|title=More or Less examines Office for National Statistics figures on gay, lesbian and bisexual people|url=http://www.bbc.co.uk/programmes/b00tznbk|publisher=BBC|date=ngày 1 Octobertháng 10 năm 2010}}</ref> Đánh giá số lượng người đồng tính nữ đôi khi không được phân biệt rạch ròi trong các nghiên cứu về các hộ gia đình đồng giới trong các cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ và đánh giá tổng số lượng người đồng tính nam, đồng tính nữ và song tính bởi chính phủ Vương quốc Anh. Tuy nhiên, các cuộc khảo sát ở Úc ghi nhận được một loạt các kết quả từ 1.3% đến 2.2% dân số tự nhận là đồng tính nữ hoặc song tính.<ref>Wilson, Shaun (December 2004). "Gay, lesbian, bisexual and transgender identification and attitudes to same-sex relationships in Australia and the United States", ''People and Place'' '''12''' (4), pp. 12–22.</ref>
 
==Sức khỏe==
===Thể chất===
Về vấn đề y tế, đồng tính nữ được gọi là phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ (WSW) vì những quan niệm và giả thiết sai lầm về tính dục ở nữ giới và một số người chần chừ trong việc tiết lộ rõ ràng lịch sử hoạt động tình dục của mình với bác sĩ.<ref>King, p. 219.</ref> Rất nhiều người đồng tính nữ đã bỏ qua việc gặp bác sĩ bởi vì họ không tham gia vào các hoạt động dị tính và không cần kiểm soát việc [[sinh sản]], yếu tố đầu tiên khiến phần lớn phụ nữ tới tư vấn tại các [[phòng khám phụ khoa]] nữ khi họ bắt đầu tham gia vào các hoạt động tình dục.<ref>Zimmerman, p. 359.</ref> Do đó, nhiều người đồng tính nữ không được kiểm tra thường xuyên bằng [[xét nghiệm Pap]]. Báo cáo của chính phủ Hoa Kỳ cho thấy một số người đồng tính nữ bỏ bê việc khám sàng lọc y tế ở Hoa Kỳ; họ thiếu bảo hiểm y tế do nhiều người sử dụng lao động không cung cấp phúc lợi y tế cho các đối tác trong nước.<ref name="HHS">"[http://womenshealth.gov/faq/lesbian-health.cfm Frequently Asked Questions: Lesbian Health] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090129175054/http://www.womenshealth.gov/faq/lesbian-health.cfm |date=2009-01-29 }}", womenshealth.gov. [[U.S. Department of Health and Human Services]]. RetrievedTruy Januarycập ngày 12, tháng 1 năm 2009.</ref>
 
Hậu quả của việc thiếu thông tin y tế về WSW là các chuyên gia y tế và một số người đồng tính nữ cho rằng đồng tính nữ có nguy cơ mắc các [[bệnh lây truyền qua đường tình dục]] hoặc các loại ung thư thấp hơn. Khi phụ nữ tìm kiếm sự chăm sóc y tế, các chuyên gia y tế thường không thu thập được bệnh sử đầy đủ. Trong một nghiên cứu năm 2006, trong 2.345 phụ nữ đồng tính và song tính, chỉ có 9,3% khẳng định họ đã từng được bác sĩ hỏi về xu hướng tính dục. Một phần ba số người được hỏi tin rằng việc tiết lộ lịch sử tình dục của họ sẽ dẫn đến phản ứng tiêu cực và 30% đã nhận được phản ứng tiêu cực từ chuyên gia y tế sau khi xác định mình là người đồng tính hoặc song tính.<ref name="mravack">Mravack, Sally A. (July 2006). "Primary Care for Lesbians and Bisexual Women", ''American Family Physician'' '''74''' (2) pp. 279–286.</ref> Bệnh sử đầy đủ của bệnh nhân giúp các chuyên gia y tế xác định các khu vực có nguy cơ cao hơn và sửa các giả định sai về bệnh sử cá nhân của phụ nữ. Trong một cuộc khảo sát tương tự với 6.935 người đồng tính nữ, 77% đã có tiếp xúc tình dục với một hoặc nhiều bạn tình nam và 6% có tiếp xúc đó trong năm trước.<ref name="mravack" />{{efn|Another summary of overall surveys found that women who identify as lesbian, 80–95% had previous sexual contact with men, and some report sexual behavior that was risky.<ref>King, p. 221.</ref>}}
Hàng 261 ⟶ 259:
Thiếu sự phân biệt giữa phụ nữ đồng tính và dị tính trong các nghiên cứu y khoa tập trung vào các vấn đề sức khỏe của phụ nữ làm sai lệch kết quả ở phụ nữ đồng tính và phụ nữ không đồng tính. Các báo cáo không kết luận về sự xuất hiện [[ung thư vú]] ở đồng tính nữ.<ref name="mravack" /> Tuy nhiên, người ta đã xác định được rằng tỷ lệ đồng tính nữ được xét nghiệm thường xuyên bằng xét nghiệm Pap thấp hơn khiến việc phát hiện [[ung thư cổ tử cung]] ở giai đoạn đầu ở người đồng tính nữ trở nên khó khăn hơn. Các yếu tố nguy cơ phát triển tỷ lệ [[ung thư buồng trứng]] ở phụ nữ đồng tính cao hơn phụ nữ dị tính, có lẽ do nhiều người đồng tính nữ thiếu các yếu tố bảo vệ khi mang thai, nạo phá thai, tránh thai, cho con bú và sẩy thai.<ref>Vo, Christine, Carney, Michael (December 2007). "Ovarian Cancer Hormonal and Environmental Risk Effect", ''Obstetrics and Gynecology Clinics''34 (4) pp. 687–700.</ref>
 
Một số bệnh lây qua đường tình dục có thể lây truyền giữa phụ nữ, bao gồm [[vi rút vi rút papilloma ở người]] (HPV) - cụ thể là [[mụn cóc sinh dục - tổn thương vảy trong biểu mô]], [[bệnh trichomonas]], [[bệnh giang mai]] và [[vi rút herpes simplex]] (HSV). Việc lây các bệnh lây truyền qua đường tình dục cụ thể là giữa những phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ phụ thuộc vào [[hoạt động tình dục]] mà người đó tham gia. Bất kỳ vật nào tiếp xúc với dịch tiết cổ tử cung, niêm mạc âm đạo hoặc máu kinh nguyệt, kể cả ngón tay hoặc các vật dụng xâm nhập đều có thể lây truyền bệnh qua đường tình dục.<ref>[https://www.cdc.gov/std/treatment/2006/specialpops.htm#specialpops5 Women Who Have Sex with Women (WSW)], [[Centers for Disease Control]], 2006 (MMWR Augustngày 4, tháng 8 năm 2006 / Vol. 55 / No. RR—11). RetrievedTruy oncập Januaryngày 9, tháng 1 năm 2009. {{webarchive |url=https://web.archive.org/web/20140308215921/http://www.cdc.gov/std/treatment/2006/specialpops.htm#specialpops5 |date=Marchngày 8, tháng 3 năm 2014 }}</ref> [[Tiếp xúc tình dục qua đường miệng]] tiềm ẩn nguy cơ nguy cơ nhiễm HSV cao hơn,<ref>Frenkl, Tara Lee, Potts, Jeannette (February 2008). "Sexually Transmitted Infections", ''Urologic Clinics of North America'', '''35''' (1) pp. 33–46.</ref> ngay cả ở những phụ nữ chưa từng quan hệ tình dục với nam giới.<ref>King, p. 226.</ref>
 
[[Nhiễm khuẩn âm đạo]] (Bacterial vaginosis BV) xảy ra thường xuyên hơn ở đồng tính nữ, nhưng vẫn không rõ BV có lây qua đường tình dục hay không;<ref>Risser, Jan M.H., Risser, William L., Risser, Amanda (December 2008). "Epidemiology of Infections in Women", ''Infectious Disease Clinics of North America'', '''22''' (4), pp. 581–599.</ref> BV xảy ra cả ở phụ nữ không có hoặc có hoạt động tình dục với một hoặc những cá nhân khác.<ref>King, p. 229.</ref> Trong mối quan hệ đồng tính nữ, BV thường xảy ra ở cả hai người; một nghiên cứu gần đây về phụ nữ mắc BV cho thấy 81% có bạn tình mắc BV. Phụ nữ đồng tính không nằm trong danh mục tần suất lây truyền [[vi rút suy giảm miễn dịch ở người]] (HIV), mặc dù có thể lây qua dịch tiết âm đạo và cổ tử cung. Tỷ lệ lây truyền HIV cho phụ nữ đồng tính cao nhất là ở phụ nữ tham gia sử dụng ma túy qua đường tĩnh mạch hoặc quan hệ tình dục với nam giới song tính.<ref>Zimmerman, 360.</ref><ref>[https://www.cdc.gov/hiv/topics/surveillance/basic.htm HIV/AIDS Surveillance Report: Cases of HIV Infection and AIDS in the United States and Dependent Areas, 2006.] Centers for Disease Control. RetrievedTruy oncập Januaryngày 9, tháng 1 năm 2009.</ref>
 
===Tâm lý===
Hàng 284 ⟶ 282:
Trong thế kỷ thứ 15 và thứ 16, mô tả của người Pháp và người Anh về mối quan hệ giữa những người phụ nữ (''[[Lives of Gallant Ladies]]'' bởi [[Brantôme]] năm 1665, tiểu thuyết khiêu dâm ''[[Memoirs of a Woman of Pleasure]]'' của [[John Cleland]] năm 1749, ''[[L’Espion Anglais]]'' bởi một số tác giả năm 1778), thái độ của các nhà văn từ dung sai thú tiêu khiển, chuyển sang kích thích tình dục, khi mà ngay sau đó một nhân vật nam sẽ tham gia vào để hoàn thành hoạt động này. Mối quan hệ thể xác giữa phụ nữ cũng thường được khuyến khích; nam giới không cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào khi họ cho rằng hoạt động tình dục giữa phụ nữ là chấp nhận được khi người đàn ông không sẵn sàng, và nó không thể bằng sự khoái cảm mà chỉ có thể đạt được bởi hành động tình dục giữa đàn ông và phụ nữ.<ref>Faderman (1981), pp. 26–28.</ref> Tệ nhất, nếu một người phụ nữ trở nên say mê một người phụ nữ khác, cô ấy trở thành một hình tượng thảm thương. Sự thỏa mãn về thể xác và cũng bởi vậy, về tình cảm, được cho là bất khả thi nếu thiếu đi dương vật. Sự can thiệp của đàn ông vào mối quan hệ giữa những người phụ nữ chỉ cần thiết khi phụ nữ hành xử giống đàn ông và yêu cầu những quyền xã hội tương đương họ.<ref>Faderman (1981), p. 29.</ref>
 
[[FileTập tin:Lautrec in bed 1893.jpg|thumb|''[[Le Lit (Toulouse-Lautrec)|In Bed]]'' của [[Henri de Toulouse-Lautrec]] (1893). Họa sĩ người Paris sử dụng sự liên kết giữa đồng tính nữ và mại dâm<ref name="prostitution" />|alt=A painting by Henri de Toulouse-Lautrec of two short-haired women in a massive bed, covered to their chins in blankets under a red top cover. One woman is looking sleepily at the other.]]
 
Đồng tính nữ gần như trở thành độc quyền trong văn học Pháp vào thế kỷ 19, dựa trên trí tưởng tượng nam giới và mong muốn gây chấn động các giá trị đạo đức tư sản.<ref>Faderman (1981), pp. 264, 268.</ref> [[Honoré de Balzac]], trong ''[[Cô gái có đôi mắt vàng]]'' (1835), đã sử dụng đồng tính nữ trong câu chuyện của mình xoay quanh ba người sống giữa sự suy thoái đạo đức của Paris và một lần nữa trong ''[[Cousin Bette]]'' và ''[[Séraphîta]]''. Tác phẩm của ông đã ảnh hưởng đến tác phẩm ''[[Mademoiselle de Maupin]]'' của tiểu thuyết gia [[Théophile Gautier]], tác phẩm này đã đưa ra những mô tả đầu tiên về một hình thể điển hình gắn liền với những người đồng tính nữ: cao, vai rộng, hông nhỏ và có khuynh hướng thể thao.<ref>Foster, pp. 51–65.</ref> [[Charles Baudelaire]] nhiều lần sử dụng đồng tính nữ như một chủ đề trong các bài thơ của mình "Lesbos", "Femmes damnées 1" ("Damned Women "), và "Femmes damnées 2".<ref>Castle, p. 435.</ref>
Hàng 301 ⟶ 299:
Đồng tính luyến ái nữ công khai được giới thiệu trong ''[[Chiếc hộp Pandora]]'' năm 1929 giữa [[Louise Brooks]] và [[Alice Roberts]]. Tuy nhiên, sự phát triển [[Bộ luật Hays]] vào năm 1930 đã kiểm duyệt hầu hết những đề cập đến đồng tính luyến ái từ phim dưới thuật ngữ bao trùm “tà dâm”. Phim của Đức miêu tả đồng tính luyến ái và được phát hành khắp châu u, nhưng ''[[Mädchen in Uniform (1931 film)|Mädchen in Uniform]]'' năm 1931 không được phân phối ở Hoa Kỳ vì miêu tả tình yêu của một thiếu niên dành cho một nữ giáo viên trong trường nội trú.<ref name="russo58" />
 
[[FileTập tin:Childrens Hour trailer.jpg|thumb|Đồng tính nữ hay đồng tính luyến ái chưa từng được nhắc tới trong ''[[The Children's Hour (film)|The Children's Hour]]'', nhưng lí do nhân vật của [[Shirley MacLaine]]'s treo cổ tự tử lại rất rõ ràng.|alt=Still shot from the film "The Children's Hour", showing Shirley MacLaine looking down at the left and Audrey Hepburn to her right staring at her, in a bedroom. The words "Can an ugly rumor destroy what's beautiful?" obscure much of MacLaine's face.]]
 
Bởi vì Bộ luật Hays, đồng tình nữa sau năm 1930 vắng bóng trong hầu hết phim, kể cả những phim những bộ phim chuyển thể với các nhân vật đồng tính nữ công khai hoặc các plot device. Vở kịch ''[[The Children's Hour (play)|The Children's Hour]]'' của [[Lillian Hellman]] bị chuyển thành một mối tình tay ba dị tính và đổi tên sang [[These Three]]. Phim về cuộc đời của [[Nữ hoàng Christina]] năm 1933, có [[Greta Garbo]] đóng vai chính, che đậy hầu hết những suy đoán về chuyện yêu đương giữa Christina của Thụy Điển với phụ nữ.<ref name="russo58">Russo, p. 58.</ref> Đồng tính luyến ái hay đồng tính nữ không bao giờ được nhắc tới rõ ràng trong phim khi Bộ luật Hays đang thi hành. Lý do các nhà kiểm duyệt đưa ra nhằm loại bỏ một cảnh xuất hiện đồng tính nữ trong ''[[Olivia (1951 film)|The Pit of Loneliness]]'' năm 1954 là vì nó “Vô đạo đức, có xu hướng làm sai lệch những chuẩn mực đạo đức”.<ref>Russo, p. 102.</ref> Bộ luật được nới lỏng phần nào đó sau năm 1961 và năm tiếp theo [[William Wyler]] đã làm lại phim ''[[The Children's Hour (play)|The Children's Hour]]'' với [[Audrey Hepburn]] và [[Shirley MacLaine]]. Sau khi nhân vật của MacLaine thừa nhận tình yêu của mình với nhân vật của Hepburn, cô ấy đã treo cổ tự tử; điều này đã tạo tiền lệ cho những cái kết bi thương trong các bộ phim đề cập đến đồng tính luyến ái.<ref>Russo, p. 139.</ref>
Hàng 312 ⟶ 310:
 
===Kịch===
Vở trình diễn đầu tiên có cảnh hôn giữa hai người đồng tính nữ và và miêu tả cởi mở về hai người phụ nữ yêu nhau là vở kịch ''God of Vengeance'' (''Got fun nekome'') tiếng [[Yiddish theatre|Yiddish]] của [[Sholem Asch]] năm 1907. Vở kịch kể về mối tình giữa Rivkele, một người phụ nữ trẻ và Manke, một gái điếm trong nhà thổ của cha cô. Vào ngày 6 tháng 3 năm 1923, trong một buổi biểu diễn của vở kịch tại một nhà hát ở New York, nhà sản xuất và dàn diễn viên được thông báo rằng họ đã bị Đại Bồi Thẩm Đoàn kết tội vi phạm Bộ luật Hình sự quy định cách trình bày vở kịch là "tục tĩu, khiếm nhã, vô đạo đức và dàn dựng sân khấu không thuần khiết. " Họ bị bắt vào ngày hôm sau khi xuất hiện trước thẩm phán. Hai tháng sau, họ bị kết tội trong một phiên tòa xét xử của bồi thẩm đoàn. Nhà sản xuất bị phạt 200$ và dàn diễn viên nhận án treo. Vở kịch được một số đánh giá là “vở kịch vĩ đại nhất của kịch Yiddish”.<ref name=Curtin1987>{{citechú thích booksách|last1=Curtin|first1=Kaier|title=We Can Always Call Them Bulgarians: The Emergence of Lesbians and Gay Men on the American Stage|date=1987|pages=25–42|chapter=The First Lesbian Character Ever Seen on an English-language Stage|publisher=[[Alyson Publications]]|location=Boston, Massachusetts|isbn=0-932870-36-8|chapter-url=https://archive.org/details/wecanalwayscallt0000curt/page/25}}</ref><ref>{{cite magazine|last1=Curtin|first1=Kaier|title=Yiddish Lesbian Play Rocks Broadway|url=https://www.lilith.org/articles/yiddish-lesbian-play-rocks-broadway/|magazine=[[Lilith (magazine)|Lilith]]|issue=5748|date=Spring 1988|access-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020|archive-url=https://web.archive.org/web/20200411105243/https://www.lilith.org/articles/yiddish-lesbian-play-rocks-broadway/|archive-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020|url-status=dead}}</ref> ''God of Vengeance'' là nguồn cảm hứng cho vở kịch ''[[Indecent (play)|Indecent]]'' năm 2015 viết bởi [[Paula Vogel]], trong đó có nhân vật đồng tính nữ Rifkele và Manke.<ref>{{citechú thích newsbáo|last1=Gold|first1=Sylviane|title='Indecent' Opens Yale Repertory Theater Season|url=https://www.nytimes.com/2015/10/18/nyregion/indecent-opens-yale-repertory-theater-season.html|work=[[The New York Times]]|date=Octoberngày 15, tháng 10 năm 2015|access-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020|archive-url=https://web.archive.org/web/20151019021848/https://www.nytimes.com/2015/10/18/nyregion/indecent-opens-yale-repertory-theater-season.html|archive-date=Octoberngày 19, tháng 10 năm 2015|url-status=live}}</ref><ref>{{citechú thích web|title='Indecent': A Play About A Yiddish Play That Was Ahead Of Its Time|url=https://www.npr.org/transcripts/526157986|website=[[NPR]]|date=Aprilngày 29, tháng 4 năm 2017|access-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020 }}</ref> Indecent được đề cử [[Giải Tony]] năm 2017 cho Vở kịch hay nhất và Giải [[Drama Desk]] cho Vở kịch xuất sắc.
 
Nhạc kịch [[Broadway theatre|Broadway]] ''[[The Prom (musical)|The Prom]]'' có nhân vật đồng tính nữ Emma Nolan và Alyssa Greene. Vào năm 2019, tác phẩm đã được đề cử sáu giải Tony, bao gồm cả Nhạc kịch hay nhất và nhận được giải Drama Desk cho Nhạc kịch xuất sắc. Một màn trình diễn từ ''The Prom'' đã được đưa vào Cuộc diễu hành Ngày Lễ Tạ ơn của Macy năm 2018 và làm nên lịch sử khi thể hiện nụ hôn đồng tính đầu tiên trong buổi phát sóng của cuộc diễu hành.<ref>{{citechú thích web|last1=Vagianos|first1=Alanna|title=Macy's Thanksgiving Day Parade Features Same-Sex Kiss In Historic Moment|url=https://www.huffpost.com/entry/macys-parade-2018-gay-kiss_n_5bf6d42fe4b0eb6d930c8577|website=[[HuffPost]]|date=Novemberngày 22, tháng 11 năm 2018|access-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020|archive-url=https://web.archive.org/web/20190701041220/https://www.huffpost.com/entry/macys-parade-2018-gay-kiss_n_5bf6d42fe4b0eb6d930c8577|archive-date=ngày 1 Julytháng 7 năm 2019|url-status=dead}}</ref><ref>{{citechú thích newsbáo|last1=Wild|first1=Stephi|title=THE PROM Makes History With First LGBTQ Kiss on Macy's Thanksgiving Day Parade|url=https://www.broadwayworld.com/article/THE-PROM-Makes-History-With-First-LGBTQ-Kiss-on-Macys-Thanksgiving-Day-Parade-20181123|work=[[BroadwayWorld]]|date=Novemberngày 23, tháng 11 năm 2018|access-date=ngày 11 Apriltháng 4 năm 2020 }}</ref> ''[[Jagged Little Pill (musical)|Jagged Little Pill]]'' có nhân vật đồng tính nữ Jo, người đang đối mặt với sự phản đối từ người mẹ sùng đạo của mình.<ref>{{Citechú thích web|last=Kircher|first=Madison Malone|title=''Jagged Little Pill''{{’}}s Lauren Patten Will Not Admit That She Steals the Show|url=https://www.vulture.com/2020/06/jagged-little-pills-lauren-patten-steals-the-show.html|website=[[New York (magazine)|Vulture]]|date=Junengày 13, tháng 6 năm 2020|access-date=ngày 15 Octobertháng 10 năm 2020}}</ref>
 
===Truyền hình===
Hàng 325 ⟶ 323:
Giữa những năm 1970, người đồng tính nam và nữ bắt đầu xuất hiện với vai trò cảnh sát hoặc thám tử phải đối mặt với vấn đề công khai. Điều này không tiếp diễn ở chương trình đột phá ''[[Cagney & Lacey]]'' của CBS năm 1982, với sự tham gia của hai nữ trinh sát.<ref>Tropiano, pp. 75–76.</ref> Tổ sản xuất của CBS đã có ý thức cố gắng làm dịu đi hình tượng nhân vật để họ trông không có vẻ là người đồng tính nữ.<ref>Capsuto, p. 235.</ref> Vào năm 1991, một luật sư song tính do [[Amanda Donohoe]] đóng vai trong ''[[L.A. Law]]'' chia sẻ nụ hôn đồng tính nữ đầu tiên trên truyền hình vào khung giờ vàng với [[Michele Greene]], dẫn đến một cuộc tranh cãi dù được The Hollywood Reporter dán nhãn là “trong sạch”.<ref>Tropiano, p. 89.</ref>
 
[[FileTập tin:EllenDeGeneres1997Emmies.jpg|200px|thumb|Ellen DeGeneres với giải Emmy năm 1997. Việc cô xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, cũng như bộ phim sitcom của mình, thay đổi hình ảnh truyền thông về đồng tính nữ trong văn hóa phương Tây.<ref>Streitmatter, p. 104.</ref>|alt=A photograph of Ellen DeGeneres with her 1997 Emmy Award.]]
 
Mặc dù truyền hình chỉ bắt đầu sử dụng các nhân vật đồng tính luyến xuất hiện định kỳ vào cuối những năm 1980, một số sitcoms đời đầu sử dụng stock character (một nhân vật trong văn học, kịch hoặc phim được người đọc hoặc người xem nhanh chóng nhận ra và chấp nhận mà không cần tác giả phát triển nhiều) mà tác giả [[Stephen Tropiano]] gọi là "gay-thẳng": nhân vật phụ có tính cách kỳ quặc, không tuân theo chuẩn mực giới tính hoặc có đời sống cá nhân nhập nhằng. Những người này bao gồm Zelda trong ''[[The Many Loves of Dobie Gillis]]'', cô Hathaway trong ''[[The Beverly Hillbillies]]'' và Jo trong ''[[The Facts of Life (TV series)|The Facts of Life]]''.<ref>Tropiano, pp. 185–186.</ref> Vào giữa những năm 1980 đến những năm 1990, phim sitcom thường sử dụng một tập "công khai", trong đó bạn của một trong những ngôi sao thừa nhận cô ấy là đồng tính nữ, buộc dàn diễn viên phải giải quyết vấn đề này. ''[[Designing Women]]'', ''[[The Golden Girls]]'', và ''[[Friends]]'' dùng phương án này với phụ nữ nói riêng.<ref>Tropiano, pp. 202–204.</ref>
Hàng 340 ⟶ 338:
Sự hiện diện của người đồng tính nữ đã được cải thiện kể từ đầu những năm 1980. Điều này có được một phần là do những nhân vật của công chúng đã lôi kéo sự suy xét của công chúng và bình luận trên báo chí về tính dục và sự hấp dẫn/ham muốn tình dục đồng tính nữ của họ nói chung. [[Martina Navratilova]], người thường xuất hiện trên báo lá cải nhiều năm liền là nhân vật chính thu hút sự chú ý này vì cô ấy phủ nhận bản thân đồng tính nữ và thừa nhận mình là người song tính. Cô có mối quan hệ công khai với [[Rita Mae Brown]] và [[Judy Nelson]]. Tính dục, cũng như thành tích thể thao của cô ấy, nhận được không ít sự quan tâm của giới truyền thông. Navratilova đã thúc đẩy điều mà học giả Diane Hamer gọi là "mối bận tâm không ngừng" trên báo chí với việc xác định gốc rễ của ham muốn với người cùng giới.<ref>Hamer, pp. 57–77.</ref>
 
Trong những nhân vật công chúng khác thừa nhận bản thân đồng tính hoặc song tính, đáng kể nhất phải nói đến nhạc sĩ [[k.d. lang]] và [[Melissa Etheridge]] cùng việc [[Madonna]] đạp đổ ranh giới tính dục trong các buổi biểu diễn hay các ấn phẩm của mình. Năm 1993, lang và một siêu mẫu dị tính (tự xưng) [[Cindy Crawford]] đã xuất hiện trên bìa tạp chí ''[[Vanity Fair (magazine)|Vanity Fair]]'' tháng 8 với hình ảnh Crawford đang cạo râu cho lang trong tư thế khiêu gợi còn lang nằm dài trên ghế cắt tóc với bộ suit kẻ sọc.<ref>{{citechú thích web|last1=Bennetts|first1=Leslie|title=k.d. lang Cuts It Close |url=https://www.vanityfair.com/style/1993/08/kd-lang-cover-story|work=[[Vanity Fair (magazine)|Vanity Fair]]|date=Augustngày 1, tháng 8 năm 1993|access-date=ngày 13 Septembertháng 9 năm 2018}}</ref> Hình ảnh "đã trở thành một biểu tượng được quốc tế công nhận về hiện tượng đồng tính nữ", theo Hamer.<ref>Hamer, p. 1.</ref> Năm 1994 đánh dấu sự gia tăng về sự hiện diện của người đồng tính nữ, đặc biệt với những phụ nữ có ngoại hình nữ tính. Từ năm 1992 đến 1994, các tạp chí ''[[Mademoiselle (magazine)|Mademoiselle]]'', ''[[Vogue (magazine)|Vogue]]'', ''[[Cosmopolitan (magazine)|Cosmopolitan]]'', ''[[Glamour (magazine)|Glamour]]'', ''[[Newsweek]]'', và ''[[New York (magazine)|New York]]'' đã đăng các câu chuyện về những người phụ nữ thừa nhận đã có quan hệ với những người phụ nữ khác trong quá khứ.<ref>Streitmatter, pp. 77–78.</ref>
 
Một nhà phân tích lý giải sự trở lại của đồng tính nữ (lesbian chic) là do các ẩn ý về đồng tính luyến ái thường được sử dụng của nhóm văn hóa đồng tính nam bị giới hạn vì [[AIDS]] vào cuối những năm 1980 và 1990, cùng với ký ức xa xăm của những người đồng tính nữ khi họ xuất hiện vào những năm 1970: không hấp dẫn và hiếu chiến. Nói tóm lại, những người đồng tính nữ trở nên hấp dẫn hơn đối với khán giả nói chung khi họ không còn tiền án chính trị.<ref>Hamer, pp. 87–90.</ref> Tất cả sự chú ý vào phụ nữ nữ tính và quyến rũ đã tạo ra thứ mà nhà phân tích văn hóa Rodger Streitmatter mô tả như một hình ảnh phi thực tế về những người đồng tính nữ được bao bọc bởi những người đàn ông dị tính; xu hướng ảnh hưởng đến sự gia tăng việc đưa tài liệu đồng tính nữ vào nội dung khiêu dâm nhằm vào đối tượng nam giới.<ref>Streitmatter, p. 81.</ref>
 
Sự hiện diện của người đồng tính nữ đã trỗi dậy và sự linh hoạt trong tình/tính dục đã được ghi nhận vào năm 2009, với những người nổi tiếng như [[Cynthia Nixon]] và [[Lindsay Lohan]] có những bình luận cởi mở về mối quan hệ của họ với phụ nữ và truyền hình thực tế đề cập đến các mối quan hệ đồng tính. Các nhà tâm thần học và nhà triết học nữ quyền viết rằng sự gia tăng số phụ nữ thừa nhận có mối quan hệ đồng giới là do sự chấp nhận ngày càng tăng của xã hội, nhưng cũng họ thừa nhận rằng "chỉ một loại đồng tính nữ nhất định - mảnh mai và thanh lịch hoặc butch theo phong cách trung tính đúng chuẩn- được chấp nhận trong xu hướng văn hóa chính".<ref>Fischer, Mary (Aprilngày 23, tháng 4 năm 2009). [http://us.cnn.com/2009/LIVING/personal/04/23/o.women.leave.menfor.women/index.html Why women are leaving men for other women], CNN.com/Oprah.com. RetrievedTruy oncập Aprilngày 23, tháng 4 năm 2009.</ref>
 
===Gia đình và Chính trị===
[[FileTập tin:Lesbian wedding in New York.jpg|thumb|275px|Đám cưới đồng tính nữ trên nóc nhà ở [[Brooklyn]], năm 2013. Hôn nhân đồng giới ở New York được hợp pháp hóa vào năm 2011.
|alt=]]
 
Hàng 357 ⟶ 355:
 
===Người đồng tính nữ da màu===
[[FileTập tin:NYC Pride Parade 2012 - 034 (7457177728).jpg|thumb|right|190px|Những người tham dự lễ diễu hành Tự hào ([[Pride parade]]) năm 2012 tại thành phố New York.]]
 
Đồng tính nữ da màu thường là một nhóm bị gạt ra ngoài lề xã hội, bao gồm người Mỹ gốc Phi, người Latinh, người châu Á, người Ả Rập và những người đồng tính nữ không phải da trắng khác;<ref name=Myers>{{citechú bookthích sách |last1=Myers |first1=JoAnne |title=Historical Dictionary of the Lesbian and Gay Liberation Movements |date=2013 |page=85 |edition=1st |chapter=Black Lesbians |publisher=[[Scarecrow Press]] |isbn=978-0810872264}}</ref> và có trải nghiệm bị phân biệt chủng tộc cùng với việc chịu sự kỳ thị đồng tính và thù ghét phụ nữ.<ref name=Zimmerman_LHC2000>{{citechú thích booksách|editor1-last=Zimmerman|editor1-first=Bonnie|title=Lesbian Histories and Cultures: An Encyclopedia|date=2000|edition=1st|volume=1 (Encyclopedia of Lesbian and Gay Histories and Cultures)|publisher=[[Garland Publishing]]|isbn=0-8153-1920-7}}</ref>
 
Một số học giả ghi chú rằng trước đây cộng đồng đồng tính nữ chủ yếu bao gồm phụ nữ da trắng và chịu ảnh hưởng của văn hóa Mỹ, khiến một số người đồng tính nữ da màu gặp khó khăn trong việc hòa nhập cộng đồng nói chung. Nhiều người đồng tính nữ da màu đã tuyên bố rằng họ thường bị loại trừ một cách có hệ thống khỏi không gian dành cho người đồng tính nữ do họ là phụ nữ da màu.<ref name=RuthR>{{citechú bookthích sách |editor1-last=Ruth |editor1-first=Richard |editor2-last=Santacruz |editor2-first=Erik |title=LGBT Psychology and Mental Health: Emerging Research and Advances |date=2017 |publisher=[[Praeger Publishing]] |location=Santa Barbara, California |isbn=978-1440843372}}</ref> Ngoài ra, những phụ nữ này phải đối mặt với một loạt thách thức riêng trong cộng đồng chủng tộc tương ứng của họ. Nhiều người cảm thấy bị bỏ rơi vì các cộng đồng da màu thường coi đồng tính luyến ái là một lối sống "da trắng" và coi việc chấp nhận đồng tính luyến ái là một bước lùi trong việc đạt được bình đẳng.<ref name=Zimmerman_LHC2000 />
 
Những người đồng tính nữ da màu, đặc biệt là những người thuộc nhóm dân nhập cư, thường có suy nghĩ rằng [[bản dạng xu hướng tính dục]] của họ ảnh hưởng xấu đến sự đồng hóa vào [[nền văn hóa thống trị]]. Trong lịch sử, phụ nữ da màu thường bị loại khỏi việc tham gia các phong trào đồng tính. Các học giả đã tuyên bố rằng sự bài trừ này là kết quả của phần lớn người da trắng loại bỏ sự giao thoa giữa giới, chủng tộc và tính dục, vốn là một phần cốt lõi bản dạng của người đồng tính nữ da màu. Những người đồng tính nữ tổ chức các sự kiện chủ yếu là người da trắng và trung lưu, và phần lớn tập trung các phong trào chính trị của họ vào các vấn đề phân biệt giới tính và kỳ thị đồng tính, hơn là các vấn đề giai cấp hoặc chủng tộc. Phong trào nữ quyền đồng tính nữ ban đầu bị chỉ trích vì loại trừ các vấn đề chủng tộc và giai cấp khỏi phạm vi của họ và thiếu tập trung vào các vấn đề không có lợi cho phụ nữ da trắng.<ref name=Myers /> [[Audre Lorde]], [[Barbara Smith]], và [[Cherrie Moraga]] được coi là những nhà lý thuyết lớn trong các phong trào đồng tính nữ da màu khác nhau vì sự kiên định của họ về sự hòa nhập và bình đẳng, từ cả cộng đồng các chủng tộc và cộng đồng đồng tính nữ da trắng.<ref name=Myers />
Hàng 392 ⟶ 390:
 
==Chú thích==
{{Reflisttham khảo|4}}
 
===Nguồn===
Hàng 435 ⟶ 433:
* Willett, Graham (2000). ''Living Out Loud: A History of Gay and Lesbian Activism in Australia'', Allen & Unwin. {{ISBN|1-74115-113-9}}
* Zimet, Jaye (1999). ''Strange Sisters: The Art of Lesbian Pulp Fiction, 1949–1969'', Viking Studio. {{ISBN|0-14-028402-8}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=Zimmerman|editor1-first=Bonnie|title=Lesbian Histories and Cultures: An Encyclopedia|date=2000|edition=1st|volume=1 (Encyclopedia of Lesbian and Gay Histories and Cultures)|publisher=[[Garland Publishing]]|isbn=0-8153-1920-7|url-access=registration|url=https://archive.org/details/encyclopediaofle00bzim}}
{{Refend}}
 
Hàng 442 ⟶ 440:
 
{{refbegin|40em}}
* {{citechú thích web|last1=Aron|first1=Nina Renata|title=This was the first pornography magazine for lesbians by lesbians—and it was a vital feminist voice|url=https://timeline.com/on-our-backs-lesbian-9e1422a140b9|website=Timeline|date=Julyngày 19, tháng 7 năm 2017}}
* {{citechú thích web|last1=Brownworth|first1=Victoria A.|title=Lesbian Erasure|url=https://echomag.com/lesbian-erasure/|work=Echo Magazine|date=Octoberngày 19, tháng 10 năm 2018}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Cutler|first1=Jacqueline|title=Radical action: 'Tonight We Bombed the U.S. Capitol' details 1970s rise of leftist, mostly lesbian terror group M19|url=https://www.nydailynews.com/entertainment/ny-radical-group-m19-tonight-we-bombed-capitol-book-20200104-tgfkzwp5lnag7j5d6oxi6toqsu-story.html|work=[[New York Daily News]]|date=Januaryngày 4, tháng 1 năm 2020}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Ditum|first1=Sarah|title=Why were lesbians protesting at Pride? Because the LGBT coalition leaves women behind|url=https://www.newstatesman.com/politics/feminism/2018/07/why-were-lesbians-protesting-pride-because-lgbt-coalition-leaves-women|work=[[New Statesman]]|date=ngày 11 Julytháng 7 năm 2018}}
* {{cite magazine|last1=Elbir|first1=Dilara|title=Why films about lesbian characters should be called lesbian films|url=https://lwlies.com/articles/why-films-about-lesbian-characters-should-be-called-lesbian-films/|magazine=[[Little White Lies (magazine)|Little White Lies]]|date=ngày 17 Septembertháng 9 năm 2019|access-date=ngày 26 Novembertháng 11 năm 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20191205221245/https://lwlies.com/articles/why-films-about-lesbian-characters-should-be-called-lesbian-films/|archive-date=ngày 5 Decembertháng 12 năm 2019|url-status=dead}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Fleming|first1=Pippa|title=The gender-identity movement undermines lesbians|url=https://www.economist.com/open-future/2018/07/03/the-gender-identity-movement-undermines-lesbians|work=[[The Economist]]|date=Julyngày 3, tháng 7 năm 2018}}
* {{citechú thích web|last1=Herzog|first1=Katie|title=Where Have All The Lesbians Gone?|url=https://andrewsullivan.substack.com/p/where-have-all-the-lesbians-gone-0a7|website=[[The Weekly Dish]]|date=Novemberngày 27, tháng 11 năm 2020}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Jansen|first1=Charlotte|title='We wanted people to see that we exist': the photographer who recorded lesbian life in the 70s|url=https://www.theguardian.com/artanddesign/2021/feb/15/jeb-lesbian-photographer-eye-to-eye-republished-joan-e-biren|work=[[The Guardian]]|date=ngày 15 Februarytháng 2 năm 2021}}
* {{citechú thích web |last1=Kenny |first1=Gillian |title=The 'Itch', and Other Ways History Explained Lesbianism |url=https://www.vice.com/en_au/article/epgbd4/the-itch-and-other-ways-history-explained-lesbianism |website=[[Vice Media]] |date=ngày 11 Februarytháng 2 năm 2020 }}
* {{cite magazine|last1=Levy|first1=Ariel|title=Lesbian Nation|url=https://www.newyorker.com/magazine/2009/03/02/lesbian-nation|magazine=[[The New Yorker]]|date=Marchngày 2, tháng 3 năm 2009}}
* {{citechú thích web|last1=Morris|first1=Bonnie J.|title=Dyke Culture and the Disappearing L|url=http://www.slate.com/blogs/outward/2016/12/22/disappearing_lesbians_and_the_need_to_preserve_dyke_culture.html|website=Outward|publisher=[[Slate (magazine)|Slate]]|date=Decemberngày 22, tháng 12 năm 2016}}
* {{citechú thích web|last1=Reilly|first1=Peter J.|title=Lesbians Want A Church Of Their Own And IRS Approves|url=https://www.forbes.com/sites/peterjreilly/2018/08/03/lesbians-want-a-church-of-their-own-and-irs-approves/|access-date=2021-01-13|website=Forbes|language=en}}
* {{citechú thích web|last1=Robertson|first1=Julia Diana|title=Annemarie Schwarzenbach—The Forgotten Woman—Activist, Writer & Style Icon|url=https://www.huffpost.com/entry/annemarie-schwarzenbachforgotten-style-icon-writer_b_59736407e4b0f1feb89b43c8|website=[[HuffPost]]|date=Julyngày 25, tháng 7 năm 2017}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Stephenson|first1=Miranda|title=Why is 'lesbian' still a dirty word?|url=https://www.varsity.co.uk/lifestyle/19492|work=[[Varsity (Cambridge)|Varsity]]|date=Junengày 20, tháng 6 năm 2020}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Swan|first1=Rachel|title=Pride of Place: As the Nation's Gay Districts Grow More Affluent, Lesbians Are Migrating to the 'Burbs|url=http://www.sfweekly.com/news/pride-of-place-as-the-nations-gay-districts-grow-more-affluent-lesbians-are-migrating-to-the-burbs/|work=[[SF Weekly]]|date=Junengày 25, tháng 6 năm 2014}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Tapponi|first1=Róisín|title=It's about time film began representing the lesbian gaze|url=https://www.theguardian.com/film/2020/feb/28/its-about-time-film-began-representing-the-lesbian-gaze-portrait-of-a-lady-on-fire|work=[[The Guardian]]|date=ngày 28 Februarytháng 2 năm 2020}}
* {{citechú newsthích báo|last1=Trebay|first1=Guy|title=The Subtle Power of Lesbian Style|url=https://www.nytimes.com/2004/06/27/style/the-subtle-power-of-lesbian-style.html|work=[[The New York Times]]|date=Junengày 27, tháng 6 năm 2004}}
* {{citechú thích web|last1=Wenham|first1=Kitty|date=2019-07-12|title=Straight women need to stop claiming they'd ‘go gay’ for Megan Rapinoe|url=https://www.independent.co.uk/voices/megan-rapinoe-lgbt-girl-crush-lesbian-us-womens-football-soccer-world-cup-a9002846.html|access-date=2021-01-13|website=The Independent|language=en}}
{{refend}}
 
;Books and journals
{{refbegin|40em}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=Barrett|editor1-first=Ruth|title=Female Erasure: What You Need To Know About Gender Politics' War on Women, the Female Sex and Human Rights|date=2016|publisher=Tidal Time Publishing|location=California|edition=1st|isbn=978-0997146707}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Castle|first1=Terry|title=The Apparitional Lesbian: Female Homosexuality and Modern Culture|date=1995|publisher=[[Columbia University Press]]|edition=1st|isbn=0-231-07652-5|author1-link=Terry Castle}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=Cogan|editor1-first=Jeanine C.|editor2-last=Erickson|editor2-first=Joanie M.|title=Lesbians, Levis and Lipstick: The Meaning of Beauty in Our Lives|date=1999|publisher=[[The Haworth Press]]|isbn=0-7890-0661-8}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=Cooper|editor1-first=Sara E.|title=Lesbian Images in International Popular Culture|date=2010|publisher=[[Routledge]]|isbn=978-1560237969}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=[[Karla Jay|Jay]]|editor1-first=Karla|title=Dyke Life: From Growing Up To Growing Old, A Celebration Of The Lesbian Experience|date=1995|publisher=[[Basic Books]]|isbn=978-0465039074|url=https://archive.org/details/dykelifefromgrow00jayk}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Jeffreys|first1=Sheila|title=Unpacking Queer Politics: A Lesbian Feminist Perspective|date=2003|publisher=[[Polity (publisher)|Polity]]|edition=1st|isbn=978-0745628370|url=https://archive.org/details/unpackingqueerpo00jeff|author1-link=Sheila Jeffreys}}
* {{cite journal|last1=Katz|first1=Sue|title=Working class dykes: class conflict in the lesbian/feminist movements in the 1970s|journal=The Sixties: A Journal of History, Politics and Culture|date=2017|volume=10|issue=2|pages=281–289|publisher=[[Routledge]]|issn=1754-1328|doi=10.1080/17541328.2017.1378512|doi-access=free}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Kennedy|first1=Elizabeth Lapovsky|last2=Davis|first2=Madeline D.|title=Boots of Leather, Slippers of Gold: The History of a Lesbian Community|date=1993|publisher=[[Routledge]]|isbn=0-415-90293-2|url=https://archive.org/details/bootsofleathersl00kenn_0|author1-link=Elizabeth Lapovsky Kennedy}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Lowey|first1=Robin|title=Game Changers: Lesbians You Should Know About|date=2017|publisher=Epochalips Books|edition=1st|isbn=978-1532353710|oclc=1049175226}}
* {{citechú bookthích sách|editor1-last=McHugh|editor1-first=Kathleen A.|editor2-last=Johnson-Grau|editor2-first=Brenda|editor3-last=Sher|editor3-first=Ben Raphael|title=The June L. Mazer Lesbian Archives: Making Invisible Histories Visible|url=https://archive.org/details/MakingInvisibleHistoriesVisibleTheJuneL.MazerLesbianArchive|date=2014|publisher=[[UCLA Center for the Study of Women]] ([[Regents of the University of California]])|isbn=978-0-615-99084-2}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Millward|first1=Liz|last2=Dodd|first2=Janice G.|last3=Fubara-Manuel|first3=Irene|title=Killing Off the Lesbians: A Symbolic Annihilation on Film and Television|date=2017|publisher=[[McFarland & Company]]|location=Jefferson, North Carolina|isbn=978-1476668161}}
* {{cite journal|last1=Moreno-Domínguez|first1=Silvia|last2=Raposo|first2=Tania|last3=Elipe|first3=Paz|title=Body Image and Sexual Dissatisfaction: Differences Among Heterosexual, Bisexual, and Lesbian Women|journal=[[Frontiers in Psychology]]|date=2019|volume=10|page=903|doi=10.3389/fpsyg.2019.00903|pmid=31143139|pmc=6520663|s2cid=147707651|issn=1664-1078|doi-access=free}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Morris|first1=Bonnie J.|title=The Disappearing L: Erasure of Lesbian Spaces and Culture|date=2016|publisher=[[SUNY Press]]|edition=1st|isbn=978-1-4384-6177-9|url=http://www.sunypress.edu/p-6263-the-disappearing-l.aspx|author1-link=Bonnie J. Morris}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Munt|first1=Sally R.|title=Heroic Desire: Lesbian Identity and Cultural Space|date=1998|edition=1st|publisher=[[New York University Press]]|isbn=978-0814756065|author1-link=Sally Rowena Munt}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Myers|first1=JoAnne|title=The A to Z of the Lesbian Liberation Movement: Still the Rage (The A to Z Guide Series, No. 73)|date=2003|publisher=[[The Scarecrow Press]]|location=Lanham, Maryland|edition=1st|isbn=978-0-8108-6811-3|url=https://rowman.com/ISBN/9780810863279/The-A-to-Z-of-the-Lesbian-Liberation-Movement-Still-the-Rage|access-date=2018-07-30|archive-url=https://web.archive.org/web/20180730131454/https://rowman.com/ISBN/9780810863279/The-A-to-Z-of-the-Lesbian-Liberation-Movement-Still-the-Rage|archive-date=2018-07-30|url-status=dead}} (Original U.S. copyright is 2003.)
* {{citechú bookthích sách|last1=Richards|first1=Dell|title=Lesbian Lists: A Look at Lesbian Culture, History, and Personalities|date=1990|publisher=[[Alyson Publications]]|edition=1st|isbn=155583163X|url=https://archive.org/details/lesbianlistslook00rich_0}}
* {{citechú bookthích sách|last1=Weiss|first1=Andrea|title=Vampires and Violets : Lesbians in the Cinema|date=1992|edition=1st|publisher=[[Jonathan Cape]]|location=London, United Kingdom|isbn=0-224-03575-4|author1-link=Andrea Weiss (filmmaker)}}
{{refend}}
 
;Audio
* {{citechú thích web|author=Guy Raz|title='Late-Life Lesbians' Reveal Fluidity Of Sexuality|url=https://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=129050832|website=[[All Things Considered]]|publisher=[[NPR]]|date=Augustngày 7, tháng 8 năm 2010}}
 
==Liên kết ngoài==