Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Subrahmanyan Chandrasekhar”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 0 nguồn và đánh dấu 1 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
→‎Tiểu sử: clean up, general fixes using AWB
Dòng 24:
 
Chandrasekhar được học ở nhà từ bé cho đến cấp hai và sau đó ông học trường phổ thông Hindu, ở [[Triplicane]], [[Chennai|Madras]], [[Anh Ấn]] từ 1922-1925. Sau khi tốt nghiệp, ông học tại trường [[Presidency College, Chennai]] từ 1925 đến 1930, nhận bằng cử nhân Vật lý tháng 6 năm 1930. Tháng 7 năm 1930, Chandrasekhar nhận được học bổng của [[chính phủ]] [[Ấn Độ]] để học tập tại [[đại học Cambridge]], nơi ông học là [[Trinity College, Cambridge|Trinity College]] và trở thành sinh viên nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo sư [[Ralph H. Fowler|R. H. Fowler]]. Theo lời khuyên của giáo sư [[Paul Dirac|P. A. M. Dirac]], một nhà vật lý nổi tiếng và cũng hướng dẫn ông,
Chandrasekhar đến nghiên cứu 1 năm tại ''Institut for Teoretisk Fysik'' (Viện Vật lý lý thuyết) ở [[Copenhagen]] [[Đan Mạch]], nơi ông gặp giáo sư [[Niels Bohr]]. Hè năm 1933, Chandrasekhar nhận bằng tiến sĩ tại đại học Cambridge, và vào tháng 10 ông được chọn làm thành viên danh dự của Trinity College trong giai đoạn 1933-37. Trong thời gian này, ông trở thành người quen của giáo sư Sir [[Arthur Eddington]] và giáo sư [[E. A. Milne]]. Tháng 9 năm 1936, Chandrasekhar cưới Lalitha Doraiswamy, là bạn học cùng trường Presidency College, Madras, và ông là người hướng dẫn năm thứ nhất cho cô. Trong tự truyện Nobel của ông, Chandrasekhar viết "sự hiểu biết kiên nhẫn của Lalitha, sự ủng hộ và động viên của bà ấy là nhân tố chính trong cuộc sống của tôi."<ref>[http://www.huwu.org/nobel_prizes/physics/laureates/1983/chandrasekhar-autobio.html Subrahmanyam Chandrasekhar: Autobiography]{{Liên kết hỏng|date = ngày 2 tháng 7 năm 2021-07-02 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>
 
== Sự nghiệp ==