Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Cuba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 135:
 
==== Cuộc nổi dậy của Martí và bắt đầu cuộc chiến ====
Sau khi bị trục xuất lần thứ hai đến Tây Ban Nha vào năm 1878, nhà hoạt động ủng hộ độc lập người Cuba [[José Martí]] đã chuyển đến Hoa Kỳ vào năm 1881, nơi ông bắt đầu huy động sự ủng hộ của cộng đồng người Cuba lưu vong ở Florida, đặc biệt là ở [[Ybor City]] ở Tampa và [[Key West, Florida|Key West]].<ref>Gerald E. Poyo, ''With All, and for the Good of All: The Emergence of Popular Nationalism in the Cuban Communities of the United States, 1848–1898'' (Duke University Press, 1989).</ref> Ông muônmuốn có một cuộc cách mạng và giúp Cuba độc lập khỏi Tây Ban Nha nhưng cũng vận động để phản đối việc Hoa Kỳ sáp nhập Cuba, điều mà một số chính trị gia Mỹ và Cuba mong muốn. Các nỗ lực tuyên truyền tiếp tục trong nhiều năm và gia tăng cường bắt đầu từ năm 1895.<ref>George W. Auxier, "The propaganda activities of the Cuban Junta in precipitating the Spanish–American War, 1895–1898." ''Hispanic American Historical Review'' 19.3 (1939): 286-305. [https://www.jstor.org/stable/2507259 in JSTOR] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20180720165657/https://www.jstor.org/stable/2507259 |date=ngày 20 tháng 7 năm 2018 }}</ref><ref>Schellings, William J. "Florida and the Cuban Revolution, 1895–1898." ''Florida Historical Quarterly'' (1960): 175-186. [https://www.jstor.org/stable/30150258 in JSTOR] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20161025174047/http://www.jstor.org/stable/30150258 |date=ngày 25 tháng 10 năm 2016 }}</ref>
 
Sau khi thảo luận với các hội ái quốc trên khắp Hoa Kỳ, Antilles và châu Mỹ Latinh, '' Partido Revolucionario Cubano '' (Đảng Cách mạng Cuba) chính thức được thành lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1892 với mục đích giành độc lập cho cả Cuba và Puerto Rico. Martí được bầu làm người đại diện, chức vụ cao nhất của đảng này. Đến cuối năm 1894, những điều kiện cơ bản để phát động cách mạng đã được đặt ra.<ref>Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. pp. 59–60.</ref> Theo lời của Foner, "sự thiếu kiên nhẫn của Martí khi bắt đầu cuộc cách mạng giành độc lập đã bị ảnh hưởng bởi nỗi sợ hãi ngày càng tăng của ông rằng Hoa Kỳ sẽ thành công trong việc thôn tính Cuba trước khi cuộc cách mạng có thể giải phóng hòn đảo khỏi tay Tây Ban Nha".<ref name = "wfbftj">Foner, Philip: ''The Spanish-Cuban-American War and the Birth of American Imperialism''. Quoted in: [http://www.historyofcuba.com/history/scaw/scaw1.htm "The War for Cuban Independence"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080416011747/http://www.historyofcuba.com/history/scaw/scaw1.htm |date=ngày 16 tháng 4 năm 2008 }}. HistoryofCuba.com. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2013.</ref>
 
Vào ngày 25 tháng 12 năm 1894, ba con tàu gồm '' Lagonda '', '' Almadis '' và '' Baracoa '' khởi hành đến Cuba từ Bãi biển Fernandina, Florida chở đầy những người có vũ trang và tiếp liệu. Hai trong số các con tàu đã bị chính quyền Hoa Kỳ bắt giữ vào đầu tháng Giêng, họ cũng đã báo cho chính phủ Tây Ban Nha nhưngtrong quá trình tố tụngkhi vẫn tiếp tục bắt giữ. Cuộc nổi dậy bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 1895 cùng lúc với các cuộc nổi dậy trên khắp hòn đảo. Ở Oriente, những trận quan trọng nhất diễn ra ở Santiago, Guantánamo, Jiguaní, San Luis, El Cobre, El Caney, Alto Songo, Bayate và Baire. Các cuộc nổi dậy ở trung tâm hòn đảo như Ibarra, Jagüey Grande và Aguada phối hợp kém và thất bại; các thủ lĩnh bị bắt, một số bị trục xuất và một số bị hành quyết. Ở tỉnh La Habana, cuộc nổi dậy đã bị phát hiện trước cả khi nó nổ ra và các nhà lãnh đạo đã bị bắt giữ. Do đó, quân nổi dậy phía tây ở Pinar del Río được lệnh ẩn mình chờ đợi.
 
Martí, trong lúc đang trên đường đến Cuba, đã đưa ra Tuyên ngôn Montecristi ở [[Santo Domingo]], vạch ra chính sách cho cuộc chiến giành độc lập Cuba: cuộc chiến này sẽ do cả người da đen và người da trắng tiến hành; sự tham gia của tất cả người da đen là rất quan trọng đểtrong việc giành chiến thắng; Người Tây Ban Nha nếu không phản đối nỗ lực kháng chiến tranh nênsẽ được tha, tài sản nông thôn tư nhân ở nông thôn không bị tổn hại; và cuộc cách mạng sẽ mang lại cuộcđời sống kinh tế mới cho Cuba.<ref name = "wqswxw"/><ref>Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. p. 61.</ref>
 
Vào ngày 1 và ngày 11 tháng 4 năm 1895, các thủ lĩnh chính của quân nổi dậy đã đổ bộ với hai cuộc viễn chinh ở Oriente: Thiếu tá Antonio Maceo và 22 thành viên gần [[Baracoa]] và Martí, [[Máximo Gómez]] và bốn thành viên khác ở Playitas. Vào khoảng thời gian đó, lực lượngquân Tây Ban Nha tại Cuba có khoảng 80.000 người, trong đó 20.000 quân chính quy, 60.000 quân tình nguyện người Tây Ban Nha và người Cuba. Sau này, một lực lượng nhậpdự ngũbị địa phương đảm nhận hầu hết các nhiệm vụ '' bảo vệ và cảnhgiám sát '' trên đảo. Các chủ đất giàu có sẽ '' tình nguyện '' gửi một số nô lệ của họ phục vụ trong lực lượng này, lực lượng nằm dưới sự kiểm soát của địa phương và không thuộc quyền chỉ huy chính thức của quân đội. Đến tháng 12, 98.412 quân chính quy đã được gửi đến hòn đảo và số lượng tình nguyện viên đã tăng lên 63.000 người. Đến cuối năm 1897, có 240.000 lính chính quy và 60.000 lính không thường trực trên đảo. NhữngQuân ngườiđội thuộc phe cách mạng đông hơn rất nhiều.<ref name = "wqswxw"/>
 
Những người nổi dậy được đặt biệt danh là "Mambis" theo tên một sĩ quan người Tây Ban Nha da đen, Juan Ethninius Mamby, người đã tham gia cùng quân Dominica trong cuộc chiến giành độc lập vào năm 1846.<ref>{{chú thích web|title=Weekend Economists Split for Havana February 6-8, 2015 - Democratic Underground|url=https://www.democraticunderground.com/111664320|website=www.democraticunderground.com|access-date = ngày 29 tháng 5 năm 2020}}</ref> Những người lính Tây Ban Nha gọi quân nổi dậy Dominica là "người của Mamby" và "Mambis".<ref>{{Chú thích tạp chí|last1=Smith|first1=Iain R.|last2=Stucki|first2=Andreas|date = ngày 1 tháng 9 năm 2011 |title=The Colonial Development of Concentration Camps (1868–1902)|journal=The Journal of Imperial and Commonwealth History|volume=39|issue=3|pages=417–437|doi=10.1080/03086534.2011.598746|s2cid=159576119|issn=0308-6534|url=http://wrap.warwick.ac.uk/44298/1/WRAP_Smith_Andreas%27s_and_Iain%27s_revised_version_of_JICH_article_%28completed%29.pdf}}</ref> Khi Chiến tranh Mười năm nổ ra vào năm 1868, một số người trong số những người lính tương tự được bổ nhiệm đến Cuba, nhập khẩu những gì mà sau đó trở thành một thứ sỉ nhục của Tây Ban Nha. Người Cuba lấy tên này với niềm tự hào.<ref>{{chú thích web|title=Spanish-Cuban-American War - History of Cuba|url=http://www.historyofcuba.com/history/scaw/scaw1a.htm|website=www.historyofcuba.com|access-date = ngày 29 tháng 5 năm 2020}}</ref>
 
Sau Chiến tranh Mười năm, việc sở hữu vũ khí của các cá nhân bị cấm ở Cuba. Do đó, một trong những vấn đề nghiêm trọng và dai dẳng nhất đối với phiến quân là thiếu vũ khí phù hợp. Việc thiếu vũ khí buộc họ phải sử dụng chiến thuật [[du kích]], sử dụng môi trường, yếu tố bất ngờ, ngựa nhanh và vũ khí đơn giản như dao rựa. Hầu hết các loại súng của họ đều có được trong các cuộc đột kích vào người Tây Ban Nha. Trong khoảng thời gian từ ngày 11 tháng 6 năm 1895 đến ngày 30 tháng 11 năm 1897, 60 nỗhoạt lực đã được thực hiện đểđộng mang vũ khí và tiếp liệu cho quân nổi dậy từ bên ngoài Cuba, nhưng chỉ một nỗ lựclần thành công, phần lớn là do sự bảo vệ của hải quân Anh. 28 trong số những nỗ lực tiếp tế này đã bị dừngchặn lại trong lãnh thổ Hoa Kỳ, 5 lần bị Hải quân Hoa Kỳ chặn đánh, 4 lần bị Hải quân Tây Ban Nha đánh chặn đánh, 2 chiếc tàu bị đắm, một chiếc bị bão đưa về cảng và số phận của ngườilần khác vẫn chưa rõ.<ref name = "wqswxw"/>
 
=== leo thang của chiến tranh ===