Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Cuba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 149:
Sau Chiến tranh Mười năm, việc sở hữu vũ khí cá nhân bị cấm ở Cuba. Do đó, một trong những vấn đề nghiêm trọng và dai dẳng nhất đối với phiến quân là thiếu vũ khí phù hợp. Việc thiếu vũ khí buộc họ phải sử dụng chiến thuật [[du kích]], sử dụng môi trường, yếu tố bất ngờ, ngựa và vũ khí đơn giản như dao rựa. Hầu hết các loại súng đều có được trong các cuộc đột kích người Tây Ban Nha. Trong khoảng thời gian từ ngày 11 tháng 6 năm 1895 đến ngày 30 tháng 11 năm 1897, có 60 hoạt động mang vũ khí và tiếp liệu cho quân nổi dậy từ bên ngoài Cuba nhưng chỉ có một lần thành công, phần lớn là do sự bảo vệ của hải quân Anh. 28 trong số những nỗ lực tiếp tế này đã bị chặn lại trong lãnh thổ Hoa Kỳ, 5 lần bị Hải quân Hoa Kỳ chặn đánh, 4 lần bị Hải quân Tây Ban Nha chặn đánh, 2 chiếc tàu bị đắm, một chiếc bị bão đưa về cảng và số phận của lần khác vẫn chưa rõ.<ref name = "wqswxw"/>
 
=== Chiến tranh leo thang của chiến tranh ===
[[Tập tin:Judge-2-6-1897.jpg|thumb|Các nhà lãnh đạo phiến quân đã tham gia vào các hoạt động tuyên truyền rộng rãi để kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp, như trong phim hoạt hình này trên một tạp chí Mỹ. [[Columbia (tên)|Columbia]] (chỉ người dân Hoa Kỳ) tiếp cận để giúp đỡ Cuba bị áp bức vào năm 1897 trong khi [[UncleChú Sam]] (chính phủ Hoa Kỳ) mù mịt trước cuộc khủng hoảng và sẽ không sử dụng những khẩu súng mạnh mẽ của mình để giúp đỡ. [[Judge (Magazinetạp chí)|Tạp chí '' Judge '']], ngày 6 tháng 2 năm 1897.]]
 
Martí bị giết vào ngày 19 tháng 5 năm 1895, trong một cuộc tấn công liều lĩnh chống lại các lực lượng cố thủ của Tây Ban Nha, nhưng [[Máximo Gómez]] (một người Dominica) và [[Antonio Maceo Grajales|Antonio Maceo]] (một người đa tình){{sfn|Clodfelter|2017|p=308}} đãvẫn tiếp tục chiến đấu, đưa cuộc chiến lan đến tất cả cáctoàn vùng của Oriente. Gómez đã sử dụng chiến thuật thiêu đốt, kéo theo việc kích động các đoàn tàu chở khách và đốt tài sản và đồn điền sản xuất đường của những người trung thành với Tây Ban Nha — trong đó có nhiều đồn điền do người Mỹ làm chủ.<ref>{{chú thích sách |last1=Jones |first1=Howard |title=Crucible of Power: A History of American Foreign Relations to 1913 |url=https://archive.org/details/cruciblepowerhis1897jone |date=2009 |publisher=Rowman & Littlefield Publishers |page=[https://archive.org/details/cruciblepowerhis1897jone/page/n286 270]}}</ref> Đến cuối tháng 6, toàn bộ Camagüey lâmđều vào chiến tranh. Tiếp tục đitiến về phía tây, Gómez và Maceo thamhội giaquân với các cựu chiến binh của cuộc chiến năm 1868, những người theo chủ nghĩa quốc tế người Ba Lan, Tướng [[Carlos Roloff]] và Serafín Sánchez ở Las Villas, nâng cấp hàng ngũ và tăng cường kho vũ khí của họ. Vào giữa tháng 9, đại diện của năm Quân đoàn Giải phóng đã tập hợp tại [[Jimaguayú]], Camagüey, để thông qua Hiến pháp Jimaguayú. Hiến pháp này thành lập một chính phủ trung ương, nhóm các quyền hành pháp và lập pháp thành một thực thể, Hội đồng Chính phủ, do [[Salvador Cisneros]] và [[Bartolomé Masó]] đứng đầu.
 
Sau một thời gian hợp nhất ở ba tỉnh miền Đông, quân giải phóng tiến về Camagüey và sau đó đến [[Matanzas]], qua mặt và đánh lừa Quân đội Tây Ban Nha nhiều lần. Những ngườiQuân cách mạng đã đánh bại vị tướng Tây Ban Nha [[Arsenio Martínez Campos]], chính ông ta là người chiến thắng trong Cuộc chiến Mười năm, và giết vị tướng thân tín nhất của mình tại [[Peralejo]]. Campos đã thử cùng một chiến lược mà ông đã áp dụng trong Chiến tranh Mười năm, xây dựng một vành đai phòng thủ rộng khắp trên đảo, vềdài {{convert|80|km}}dài rộng {{convert|200|m}} rộng. ĐườngVành đai phòng thủ này, được gọi là '' trocha '', nhằm hạn chế các hoạt động của phiến quân ở các tỉnh phía đông, bao gồm một [[đường sắt]], từ Jucaro ở phía nam đến Moron ở phía bắc, trên đó các xe lửa bọc thép có thể đi lại. Tại các điểm khác nhau dọc theo tuyến đường sắt này có các công sự, trongcứ khoảng thời giancách {{convert|12|m}} có các bàimột đăngchốttrong khoảng thời giancách {{convert|400|m}} lạidâyhàng rào thép gai. Ngoài ra, [[bẫy bắt mồimìn]] đã được đặt ở những vị trí có nhiều khả năng bị tấn công nhất.
 
ĐốiVề vớiphía quân nổi dậy, điều cần thiết là phải đưa cuộc chiến đến các tỉnh phía tây Matanzas, La Habana và Pinar del Río, nơi đặt trụ sở chính quyền và là tập trung sự giàu có của hòn đảo. Cuộc Chiến tranh Mười năm đã thất bại vì nó không thể tiến ra ngoàikhỏi các tỉnh miền Đông.<ref name="wqswxw"/> Trong một chiến dịch kỵ binh thành công, vượt qua các '' trochastrocha '', quân nổi dậy xâm chiếm mọi tỉnh. Bao quanhvây tất cả các thành phố lớn hơn và các thị trấn kiên cố, họ đến cực tây của hòn đảo vào ngày 22 tháng 1 năm 1896, đúng ba tháng sau cuộc xâmtiến lượccông gần Baraguá.<ref name=spanamwar-timeline>{{chú thích web|url=http://www.spanamwar.com/timeline.htm|title=Spanish American War Chronology|publisher=SpanAmWar.com|access-date=ngày 30 tháng 10 năm 2007|archive-url=https://web.archive.org/web/20071023061035/http://www.spanamwar.com/timeline.htm|archive-date=ngày 23 tháng 10 năm 2007|url-status=live}}</ref><ref>Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. pp. 64–65.</ref>
 
[[Tập tin:Weyler reconcentrados.png|thumb|Nạn nhân người Cuba của chính sách tái hòathu nhậphồi của Tây Ban Nha]]
 
Không thể đánh bại quân nổi dậy bằng các chiến thuật quân sự thông thường,<ref>{{chú thích sách |last1=Tucker |first1=Spencer |title=The encyclopedia offers two complete volumes of alphabetically organized entries... Philippine- American Wars: A Political, Social, and Military History, Volume 1 |date=2009 |publisher=ABC-CLIO |page=246}}</ref> Chính phủ Tây Ban Nha đã cử tướng [[Valeriano Weyler, Công tước thứ nhất của Rubí|Valeriano Weyler y Nicolau]] (biệt danh là '' Người bán thịt ''), người đã phản ứng với những thành công của phiến quân bằng cách đưa ra các phương pháp khủng bố: hành quyết định kỳ, lưu đày hàng loạt và sự tàn phá của các trang trại và mùa màng. Những phương pháp này đạt đến đỉnh cao vào ngày 21 tháng 10 năm 1896, khi ông ra lệnh cho tất cả cư dân vùng nông thôn và gia súc của họ tập trung tại các khu vực và thị trấn kiên cố khác nhau mà quân đội của ông chiếm đóng trong vòng tám ngày. Hàng trăm nghìn người đã phải rời bỏ nhà cửa, tạo ra tình trạng quá tải kinh hoàng ở các thị trấn và thành phố. Đây là lần đầu tiên được ghi nhận và công nhận việc sử dụng các trại tập trung, nơi những người không tham gia chiến đấu bị di dời khỏi vùng đất của họ để tước đoạt sức mạnh của kẻ thù và sau đó những người thực tập phải chịu những điều kiện kinh khủng. Người Tây Ban Nha cũng sử dụng các trại tập trung [[Cách mạng Philippines|ở Philippines]] ngay sau đó, một lần nữa dẫn đến tử vong lớn do chiến đấu.<ref>{{Chú thích tạp chí|last1=Smith|first1=Iain R.|last2=Stucki|first2=Andreas|date = ngày 1 tháng 9 năm 2011 |title=The Colonial Development of Concentration Camps (1868–1902)|journal=The Journal of Imperial and Commonwealth History|volume=39|issue=3|pages=417–437|doi=10.1080/03086534.2011.598746|s2cid=159576119|issn=0308-6534|url=http://wrap.warwick.ac.uk/44298/1/WRAP_Smith_Andreas%27s_and_Iain%27s_revised_version_of_JICH_article_%28completed%29.pdf}}</ref> Người ta ước tính rằng biện pháp này đã gây ra cái chết của ít nhất một phần ba dân số nông thôn Cuba.<ref>Canalejas, José in Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. p. 66.</ref> Chính sách di dời cưỡng bức được duy trì cho đến tháng 3 năm 1898.<ref name="wqswxw"/>