Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hà Tĩnh (thành phố)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes, replaced: . → ., “ → " (14), ” → " (13) using AWB
Hồi sửa về bản sửa đổi 65262190 của AlphamaBot (talk): Phiên bản ổn định
Thẻ: Twinkle Lùi sửa
Dòng 7:
| kinh độ = 105.902725
| bản đồ 1 = {{Infobox mapframe|zoom=11|frame-width=280}}
| phân chia hành chính = 10 phường, 65
| thời điểm dân số = 2019
| dân số = 202.062 người
Dòng 14:
| vùng = [[Bắc Trung Bộ]]
| tỉnh = [[Hà Tĩnh]]
| thành lập = 28/5/2007
| loại đô thị = [[Đô thị Việt Nam#Đô thị loại II|Loại II]]
| năm công nhận = 13/2/2019
| trụ sở UBND = 72 Phan Đình Phùng, phường [[Nam Hà (phường)|Nam Hà]]
| chủ tịch UBND = NguyễnTrịnh TrọngVăn HiếuNgọc
| chủ tịch HĐND = DươngNguyễn TấtVăn ThắngQuý
| dân tộc = 95% [[Người Việt|Kinh]], 5% dân tộc khác
| biển số xe = 38-P1/T1 xxx.xx
| điện thoại = 0239385833402393.856767
| fax =
| web = {{url|http://hatinhcity.gov.vn/ }}
Dòng 35:
Thành phố cách [[Vịnh Bắc Bộ]] 5 km về phía đông, cách thủ đô [[Hà Nội]] 351 km về phía Nam, cách thành phố [[Đồng Hới]] 152 km về phía Bắc, cách thị xã [[Hồng Lĩnh]] 36 km về phía Nam, cách [[thành phố Hồ Chí Minh]] 1362 km về phía Bắc, cách thành phố [[Vinh]] 50 km về phía Nam và cách thành phố [[Huế]] 317 km về phía Bắc.
[[Tập tin:Bệnh viện Đa khoa Thành phố Hà Tĩnh.jpeg|nhỏ|trái|280px|Bệnh viện Đa khoa thành phố Hà Tĩnh]]
Thành phố Hà Tĩnh nằm ở trung tâm miền đông [[Hà Tĩnh]], trên vùng đồng bằng [[Nghệ Tĩnh]]. Địa giới hành chính của thành phố:
*Phía đông và phía tây giáp huyện [[Thạch Hà]]
*Phía nam giáp huyện [[Cẩm Xuyên]]
Dòng 47:
 
===Khí hậu===
{{Weather box
Thành Phố Hà Tĩnh có khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa (Koppen: Am). Mùa đông lạnh, tương đối ẩm ướt do chịu ảnh hưởng của áp cao Siberia. Mùa hè nóng do ảnh hưởng của dãy Trường Sơn chắn gió Tây từ Ấn Độ Dương thổi qua. Trong mùa hè, thỉnh thoảng có vài đợt nóng, khô liên tục. Mùa mưa tập trung từ tháng 5- tháng 1 năm sau, giống như vùng Bắc Trung Bộ. Mùa khô kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4. Trung bình 1 năm có 1.664 giờ nắng hàng tháng, tập trung chủ yếu vào mùa hè{{Weather box
|metric first=y
|single line=y
Dòng 162:
| title = Vietnam Building Code Natural Physical & Climatic Data for Construction
| publisher = Vietnam Institute for Building Science and Technology
| access-dateaccessdate = ngày 31 tháng 7 năm 2018}}</ref>
}}
 
Dòng 172:
Cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương Thành phố Hà Tĩnh áp dụng theo thành phố thuộc tỉnh.
===HĐND Tp Hà Tĩnh===
* Địa chỉ: Nguyễn72 TấtPhan ThắngĐình Phùng, thành phố Hà Tĩnh.
* Thường trực HĐND thành phố:
{| class="wikitable"
Dòng 180:
|-
|1
|[[Nguyễn Văn Quý]]
|Dương Tất Thắng
|Uỷ viên BTV Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố
|-
|2
|[[Tống Thị Quỳnh Hoa]]
|Nguyễn Văn Quý
|Thành uỷ viên, Phó chủ tịch HĐND thành phố
|}
===UBND Tp Hà Tĩnh===
* Địa chỉ: Số 72 Phan Đình Phùng, Thành phố Hà Tĩnh.
* Lãnh đạo UBND thành phố:
{| class="wikitable"
Dòng 196:
|-
|1
|[[Hà Văn Trọng]]
|Nguyễn Trọng Hiếu
|Tỉnh ủy viên - Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố
|-
|2
|[[Lương Quốc Tuấn]]
|Lê Quang Đức
|Ủy viên BTV Thành ủy - Phó Chủ tịch UBND thành phố
|-
|3
|[[Lê Quang Đức]]
|Phạm Hùng Cường
|Thành uỷ viên - Phó Chủ tịch UBND thành phố
|}
Dòng 215:
Thời [[Bắc thuộc]] nằm trong châu [[Phúc Lộc]].
 
Nhà [[Tiền Lê]] ([tel:980-1008 980-1008]) thuộc châu [[Thạch Hà]].
 
Năm [[1025]], thuộc trại Định Phiên (nhà [[Nhà|Lý]]).
 
Từ năm [[1226]] đến năm [[1407]] thuộc châu [[Nhật Nam]] (Nhà [[Nhà Trần|Trần]] - [[Nhà Hồ|Hồ]]).
 
Trong giai đoạn [[1407]]-[[1427]] là đất huyện [[Bàn Thạch]], châu [[Nam Tĩnh]] (Kỷ thuộc Minh).
 
Năm [[1469]], vua [[Lê Thánh Tông]] định bản đồ đất nước cho đến đầu đời Nguyễn là đất [[Thạch Hà]], phủ [[Hà Hoa]], thừa tuyên [[Nghệ An]].
 
Năm [[1831]], vua [[Minh Mạng]] nhà Nguyễn chia [[xứ Nghệ|trấn Nghệ An]] thành 2 tỉnh: [[Nghệ An]] (phía bắc [[sông Lam]]) và [[Hà Tĩnh]] (phía nam [[sông Lam]]). Khi đó xã Trung Tết, huyện [[Thạch Hà]], phủ [[hà Hoa (phủ)|Hà Hoa]], được chọn làm nơi đặt trụ sở tỉnh lỵ tỉnh [[Hà Tĩnh]].
 
[[Tháng 2]] năm [[1886]], [[Pháp]] nổ súng chiếm Thành Sen.
Dòng 231:
Ngày [[3 tháng 7]] năm [[1924]], [[Toàn quyền Đông Dương]] ra Nghị định thành lập thị xã Hà Tĩnh. Cho đến năm [[1942]], thị xã chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ bé với diện tích 247 ha và 4.400 dân. Ngoài 4 xã mới sáp nhập năm [[1920]] là Đông Quế, Xã Tắc, Trung Hậu, Tiền Bạt, nội thị chia làm 8 khu phố: Tịnh Trung, Hoàn Thị, Tiền Môn, Hậu Môn, Tả Môn, Hữu Môn, Tân Giang, Nam Ngạn.
 
Năm [[1946]], thị xã Hà Tĩnh được nâng lên thành đơn vị hành chính ngang huyện, thuộc tỉnh. Diện tích 1,2&nbsp;km² và dân số khoảng dưới 5.000 người.
 
Trong giai đoạn [[1946]] - [[1957]], thị xã Hà Tĩnh không thuộc tỉnh và chỉ là một đơn vị hành chính ngang xã, thuộc huyện [[Thạch Hà]].
 
Năm [[1958]], thị xã trở lại là đơn vị hành chính thuộc tỉnh, nhưng cũng chỉ là một đơn vị cơ sở ngang xã.
Dòng 259:
Ngày [[13 tháng 2]] năm [[2019]], [[Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Thủ tướng Chính phủ]] [[Nguyễn Xuân Phúc]] ban hành Quyết định số 175/QĐ-Ttg công nhận thành phố Hà Tĩnh là [[đô thị loại II]] thuộc tỉnh Hà Tĩnh.<ref>[http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=2&mode=detail&document_id=196166 Quyết định số 175/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ]</ref>
 
Ngày [[21 tháng 11]] năm [[2019]], [[Ủy ban Thường vụ Quốc hội]] ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày [[1 tháng 1]] năm [[2020]])<ref name=NQ819>{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-819-NQ-UBTVQH14-2019-sap-xep-don-vi-hanh-chinh-cap-xa-thuoc-tinh-Ha-Tinh-430539.aspx|tựa đề=Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>. Theo đó, sáp nhập 2 xã Thạch Đồng và Thạch Môn thành xã Đồng Môn.
 
==Du lịch ==
=== Thành Sen - Liên Thành ===
Đời Nguyễn, năm [[Minh Mạng|Minh Mệnh]] thứ 12 (1831), tỉnh Hà Tĩnh được thành lập, xã Trung Tiết được đặt làm thủ phủ Tỉnh. [[Tập tin:Quảng trường Hà Tĩnh.jpg|nhỏ|300px|Quảng trường Thành Sen bên trong thành cổ Hà Tĩnh|trái]]Năm Quý sửu, [[Tự Đức]] thứ 6 (1853), triều đình bỏ tỉnh, lấy phủ Hà Thanh (trước năm 1841 là Hà Hoa) lập đạo Hà Tĩnh. Đạo thành được đặt ở thôn Nài Thị, xã [[Đại Nài]], nguyên lỵ sở huyện [[Thạch Hà]]. 
''Xem chi tiết tại bài viết: [[Thành Sen]]''
[[Tập tin:Cửa Tiền Thành Sen.png|trái|nhỏ|317x317px|Cửa tiền Thành Sen trong An Tĩnh Cổ Lục (khoảng năm 1924-1928)]]
Đời Nguyễn, năm [[Minh Mạng]] thứ 12 (1831), tỉnh Hà Tĩnh được thành lập, xã Trung Tiết được đặt làm thủ phủ Tỉnh. 
 
Năm Quý sửu1875, [[vua Tự Đức]] thứcho 6tái (1853), triều đình bỏlập tỉnh, lấy phủTĩnh như Thanh (trước. nămTỉnh 1841thành lại Hà Hoa) lập đạo Hà Tĩnh.dời Đạovề thành được đặtthônTrung Nài Thị, xã [[Đại Nài]], nguyên lỵ sở huyện [[Thạch Hà]]Tiết
 
Năm Nhâm Ngọ, [[Tự Đức]] năm thứ 34 (1882) thành Hà Tĩnh mới được xây dựng bằng đá ong. Thành xây theo kiểu Vô-băng (Vauban), một chuyên gia người Pháp được vua [[Gia Long]] tin dùng và đã từng thiết kế [[Kinh thành Huế|thành Huế]]. Xây theo kiểu này Thành có mặt phẳng và gấp khúc theo hình chữ V để có thể đứng trên mặt Thành bắn thẳng xuống chân thành khi bị đối phương áp sát. 
Năm 1875, vua [[Tự Đức]] cho tái lập tỉnh Hà Tĩnh như trước. Tỉnh thành lại dời về thành cũ ở Trung Tiết. 
 
Năm Nhâm Ngọ, [[Tự Đức]] năm thứ 34 (1882) thành Hà Tĩnh mới được xây dựng bằng đá ong. Thành xây theo kiểu Vô-băng (Vauban), một chuyên gia người Pháp được vua [[Gia Long]] tin dùng và đã từng thiết kế [[Kinh thành Huế|thành Huế]]. Xây theo kiểu này Thành có mặt phẳng và gấp khúc theo hình chữ V để có thể đứng trên mặt Thành bắn thẳng xuống chân thành khi bị đối phương áp sát. 
 
Theo sử cũ ghi chép: Chu vi Thành 366 trượng 5 thước 6 tấc (1722,832m), cao 8 thước (3,76m), xung quanh Thành có hào rộng 5 trượng (23,5m) sâu 4 thước (1,88m) chiếm một diện tích gần 134.000 m2, nếu kể cả phía ngoài Hào Thành là 160.000m2. Thành có 4 cửa, các cổng thành xây bằng gạch khá kiên cố. Cổng thành phía nam gọi là cửa Tiền, nằm lệch sang về phía đông, trên cổng có vọng lâu, có treo một quả chuông lớn để điểm giờ gác, do lính khố xanh phụ trách. Cổng phía bắc tên gọi là cửa hậu, nằm lệch về phía tây, cửa này thường đóng kín, vọng lâu trên cổng làm vọng gác nhà lao bên trong. Cổng phía tây tên gọi là cửa Hữu, nằm lệch về phía nam, trên vọng lâu có treo một cái trống lớn, cũng để điểm giờ do lính khố lục phụ trách.Cổng phía đông tên gọi là cửa tả, nằm lệch về phía nam, cửa này đóng kín quanh năm, vì ở phía trong là doanh trại lính khố xanh, phía ngoài là nghĩa địa của người Pháp, con đường chạy thẳng ra Võ Miếu.
Hàng 282 ⟶ 278:
 
Đường thứ hai nối từ đường nhất ra cửa hữu đi vào phía bên trái có các dinh thự: dinh Tuần Vũ phía trước, tiếp sau là nhà án sát, nhà lĩnh binh. Bên phải là trại lính khố lục, đến sân bóng vừa là bãi tập của lính. Cạnh sân bóng có hành cung, nơi các quan lại tỉnh nhà bái vọng nhà vua những ngày khánh tiết. Trước hành cung có cột cờ, hồ sen và hai khẩu súng thần công. 
[[Tập tin:Không ảnh thành cổ Hà Tĩnh nhưng năm 1930-1935.jpg|trái|nhỏ|324x324px408x408px|Không ảnh thành cổ Hà Tĩnh hướng nhìn ra Cửa Sót trong tập san "Những người bạn cố đô Huế" ấn hành năm 1936]]
Đường thứ ba nối từ đường thứ hai ra cửa hậu. Nếu từ cổng thành cửa hậu (cầu Đồng Vinh) đi vào thì bên trái là nhà Lao Hà Tĩnh xây gạch, có tường cao bao bọc, bốn góc có chòi canh, lính khố xanh thay nhau gác mỗi ngày. Trong thành có nhiều hồ nước, hai hồ bán nguyệt trước hành cung và dinh Tuần; bên cạnh dinh Bố chính có hồ Thành, trước nhà Lao có hồ lớn trồng sen, đến mùa hè sen nở rộ, hương thơm toả ngát cả vùng. Do đó người ta còn gọi là Thành Sen. 
 
Ở đây còn có truyền thuyết: xưa kia ở Đạo thành Đại Nài có nhiều sen. Một đêm mưa to gió lớn, người dân địa phương và quan lại tỉnh hết sức ngạc nhiên vì thấy sen mọc đầy trong hào thành. Tỉnh thần cho đó là "điềm“điềm lành"lành”, bèn tâu xin nhà vua cho dời tỉnh thành về lại Trung Tiết. Từ đó, người ta còn gọi vùng đất này là "Liên“Liên Thành"Thành” hoặc "Thành“Thành Sen"Sen”
 
Có người lại cho rằng kiểu thành Vô - băng trông giống như bông sen tám cánh, nên gọi như thế. Thành Nghệ An (thành Vinh) cũng kiểu Vô - băng nhưng người ta lại cho là giống con rùa nên gọi là Quy thành (Thành Rùa)
 
Ngày nay, Thành Sen chỉ còn trơ trọn lại nền móng, còn sót lại đoạn hào thành phía tây, phía bắc và phía đông. Riêng đoạn hào thành phía Nam đã bị san lấp. Các công trình như tuần dinh, hành cunɡ, cột cờ, tường thành đã bị phá hủy hoàn toàn. Khu vực trại lính khố xanh nay là trụ sở Công An tỉnh Hà Tĩnh. UBNDTrên tỉnhnền Tĩnh được xây dựng trên khu vực trước đây làcủa hồdinh senTuần phía sau hành cung. Hànhnay cung Thànhtrụ Sensở đãcủa đượcỦy phában bỏNhân trởDân thànhTỉnh một phần quảng trường như bây giờ.Tĩnh
[[Tập_tin:Hào_Thành_Sen.jpg|nhỏ|Đoạn hào phía bắc Thành Sen còn sót lại nɡày nay sau khi đã được trùnɡ tu|346x346px]]
 
=== Nhà Lao Hà Tĩnh ===
Được xây dựng từ sau khi thực dân Pháp đặt chính quyền cai trị trên đất Hà Tĩnh (khoảng năm 1898) cho đến những năm đầu của thế kỷ XX. Theo Hồi ký của cố giáo sư [[Đặng Thai Mai]] viết về Nhà lao năm 1908<blockquote>"... sau bức tường vôi, chỉ có một nhà gạch không to lắm án ngự lấy "cái“cái trại lá"lá”, nơi giam tù... gọi là trại lá bởi vì lợp bằng gianh. Tỉnh Hà Tĩnh hồi ấy chưa có nhà giam bằng gạch... đi qua cái sân rộng tới một cái thềm tam cấp rồi đi vào nhà phía sau. Nhà chia làm hai buồng, giữa có một lối vào hẹp, sao tối om và hôi hám thế này..." </blockquote>Sau những năm 20, Nhà lao Hà Tĩnh mới được xây cất kiên cố. Nhà Lao gồm sáu nhà gạch xếp thành hai dãy đối diện nhau: Bắc nhất, Bắc nhì, Bắc tam, Nam nhất, Nam nhì, Nam tam (Nam nhì là lao giam tù phụ nữ, Nam tam mỗi lao sáu cái)... 
 
Trước và sau vụ chống thuế năm 1908, ở Hà Tĩnh thực dân Pháp bắt nhiều sỹ phu yêu nước thuộc [[Minh Trị Duy tân|Hội Duy Tân]] như: [[Ngô Đức Kế]], [[Lê Văn Huân]], Nguyễn Duy Phương, [[Phạm Văn Ngôn]], Phạm Thản, Võ Tĩnh, Nguyễn Hàng Chi, [[Trịnh Khắc Lập]],... giam tại Nhà lao Hà Tĩnh. 
 
Trong những năm 1930 đến 1932, Nhà Lao Hà Tĩnh chật ních tù nhân có lúc "mỗi“mỗi lao lên tới 125 người, mỗi dãy cùm dài độ 2m2 m, cùm những 5 người, thường phải thay đổi 3 người nằm thì 2 người ngồi và ngược lại. 
 
Mùa đông người tù áo ướt đẫm mồ hôi, còn mùa hè thì như bị nướng trong lò... mỗi ngày được ra ngoài 5-6 phút để tiểu giải, rửa ráy nếu chậm là bị roi quất vào lưng, vào đầu...
Hàng 310 ⟶ 306:
 Văn Miếu được phân bố trên một khuôn viên rộng, thoáng mát với diện tích khoảng 2.500 m2, ngoảnh mặt về hướng Đông, cách đường Quan (Quốc lộ 1A ngày nay) 50 m. Đi vào Văn Miếu có cổng tam quan (cổng chính cao khoảng 5m, hai cổng phụ (tả, hữu) cao khoảng 2, 3m đều làm bằng gỗ lim, có nghê đứng chầu, dân địa phương còn gọi là hai cột nanh). Cổng chính thường dành cho quan địa phương, nho sĩ và các vị bô lão, hai cổng phụ dành cho học trò và người dân. Qua cổng tam quan là con đường lát gạch chạy thẳng tới hồ bán nguyệt ở giữa, sau đó theo hai lối tả, hữu đi vào sân rộng và đến Thượng đường. Hồ bán nguyệt thường gọi là hồ Văn Miếu rất sâu, nước trong veo, nắng hạn lâu ngày cũng không bao giờ cạn. Tương truyền Hồ Văn Miếu rất linh thiêng, các cô gái trong làng không ai dám đến đây khi mặt trời đã lặn vì sợ ma quỷ quấy rối. Văn Miếu cũng là nơi thanh tịnh, sạch sẽ, xung quanh trồng cây cối làm hàng rào bảo vệ (chủ yếu là cây tre). Người dân vùng này quan niệm đây là nhà thờ Thánh nên kiêng kị, rất ít khi vào. 
 
Văn Miếu giữ nguyên hiện trạng cho đến năm 1955. Miếu có ba tòa nhà chính, xếp hình chữ "môn"“môn” và nhà "túc“túc hậu"hậu” (thường gọi là nhà mặc áo) được làm bằng gỗ, nhà 4 mái (2 mái dài, 2 mái ngắn) lợp ngói âm dương, đỉnh nóc đắp nổi hoạ tiết hai con rồng "lưỡng“lưỡng long chầu nguyệt"nguyệt”(hai đầu rồng ngoảnh mặt vào nhau). Các cột trụ ở mỗi gian và các vì kèo trong nhà đều làm bằng gỗ lim, xung quanh các cột tạo hình dáng long, ly, quy, phượng uốn lượn, bay bổng, phóng khoáng, tinh tế. Nền nhà đắp bằng đất cứng cao ráo, trơn, mịn, bằng phẳng có màu đen. Móng nhà được xây bằng đá ong rất chắc chắn. Lên bậc tam cấp vào Ngôi Thượng đường rộng lớn, đẹp đẽ. Thượng đường (nhà chính) giữa có điện thờ chính, phía trên treo bức hoành phi, hai bên là hai câu đối. Điện thờ là nơi đặt Bài vị thờ Chi thánh "Khổng“Khổng Tử"Tử”, hai bên là bài vị thờ "Tứ“Tứ Phối"Phối” ([[Nhan Tử]], [[Tăng tử]], [[Tử tư]], [[Mạnh Tử]]). Trong hai dãy Tả Vu, Hữu Vu thờ "thất“thất thập nhị hiền"hiền” (72 vị hiền triết của đạo nho Trung Quốc) và các vị tiên hiền, tiền bối trong nước và của vùng đất Hà Tĩnh. Nhà chính còn có các pho tượng chạm khắc tinh tế, sơn son thiếp vàng. Trên bệ thờ có rương làm bằng gỗ đựng sắc phong, bài vị. Sau nhà Thượng đường là nhà túc hậu (nhà mặc áo). Tại Văn Miếu trước đây thường diễn ra các lễ tế với nghi thức trang trọng. Đó là lễ tế xuân (tháng 2 âm lịch) và tế thu (vào ngày 15 tháng 8 âm lịch), tức là ngày lễ tế Nho thánh và các vị tiên hiền. Lễ tế rất trang nghiêm do các vị quan đầu tỉnh và các bô lão đứng ra chủ trì, Hội Tư văn đảm nhiệm việc tế. Trước lễ tế, quan địa phương, các vị bô lão khăn đóng, áo dài làm lễ. Sau khi tế có cuộc hội ẩm của quan chức, văn thân hàng tỉnh. Hội Tư Văn là một tổ chức của giới nho sỹ, gồm các nhà khoa bảng, các nhà văn thân tiêu biểu trong tỉnh. Những người đậu đạt cao trước khi nhận ấn tín, mũ áo vua ban thường đến Văn Miếu lễ bái để tỏ lòng biết ơn các vị Nho thánh đã ban cho ân đức, học hành đỗ đạt làm rạng rỡ gia tộc, họ hàng và tự hứa sẽ giữ trọn đạo "Vua“Vua tôi"tôi”. Ngoài tế lễ Văn Miếu còn là nơi tổ chức các kỳ sát hạch học trò toàn tỉnh chọn ra những người giỏi để đi thi Hương. Kỳ thi Hương năm 1919 là kỳ thi cuối cùng, từ đó về sau kỳ sát hạch học trò cũng không còn nữa. Sau Cách mạng Tháng Tám ở Văn Miếu chỉ diễn ra lễ tế xuân đinh, thu đinh và một số hoạt động văn thơ của hội Tư văn. 
 
Năm 1950, toàn bộ hiện vật ở Phương Cần (Cẩm Xuyên) như: tượng Thánh Khổng Tử, bài vị, văn điếu, bia, câu đối đều đem về hợp tự ở Văn Miếu. 
Hàng 323 ⟶ 319:
Năm 1999, chợ Hà Tĩnh xảy ra một trận hỏa hoạn lớn, thiêu rụi toàn bộ kết cấu chợ. Vào năm 2001 chính quyền Tỉnh Hà Tĩnh quyết định xây dựng lại chợ Hà Tĩnh với quy mô lớn hơn, và hiện đại hơn như ngày nay.
 
Trong dân gian còn lưu truyền câu ca:<blockquote>" chợ tỉnh họp tháng sáu phiên</blockquote><blockquote>Trên bến dưới thuyền tấp nập đông vui"vui”</blockquote>
 
== Văn hóa ==
Hàng 335 ⟶ 331:
===Người nổi tiếng===
* Hoàng giáp chế khoa [[Nguyễn Hoành Từ]]
* Đình nguyên Thám hoa [[Đặng Văn Kiều]](1824 - 1881): người xã Phất Náo, huyện [[Thạch Hà]], nay là xã Thạch Bình.
* Danh họa [[Nguyễn Phan Chánh]]
* Giáo sư, Viện sĩ [[Hoàng Trinh]]
* Giáo sư, Tiến sĩ [[Hồ Trọng Ngũ]]
* [[Lê Thị Nga]]: Chủ nhiệm Ủy ban [[Bộ Tư pháp (Việt Nam)|Tư pháp]] của Quốc hội Việt Nam khóa IV14, Ủy viên Ủy ban thường vụ [[Quốc hội Việt Nam khóa XIV|Quốc hội Việt Nam]]
* [[Nguyễn Đức Thanh]]: Bí thư Tỉnh ủy tỉnh [[Ninh Thuận]];
* [[Trần Tiến Hưng]]: Phó Ủy viênthư Tỉnh uỷ [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIIITĩnh]], Phó Chủ nhiệmtịch [[Ủytỉnh ban Kiểm tra Trung ương]]Tĩnh.
 
===Lễ hội truyền thống===
Hàng 349 ⟶ 345:
Trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh tập trung nhiều cơ sở giáo dục và đào tạo từ bậc mẫu giáo, tiểu học đến cao đẳng, đại học như:
===Đại học, Cao đẳng===
* [[Trường Đại học Hà Tĩnh]]: số 447 đường 26 Tháng 3, phường [[Đại Nài]] .
[[Tập tin:Trường Đại học Hà Tĩnh, cơ sở I.jpeg|nhỏ|trái|250px|Trường Đại học Hà Tĩnh, cơ sở I.]]
* Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh: Đường Nguyễn HồngCông Phong, phường [[Thạch Linh]]Trứ
* Trường Cao đẳng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Du: 12Khối Hoàng4 Xuân- Hãn,Phường phường [[Đại Nài]]
* Trường Cao đẳng nghề Việt Đức Hà Tĩnh: 371 Nguyễn Công Trứ, phườngP. [[Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh|Nguyễn Du]]
* Trường Cao đẳng nghề công nghệ Hà Tĩnh: Số 01 - Ngõ 455 - Đường Trần Phú - phường [[P.Thạch Linh]]
 
===Trường Trung cấp Nghề===
* Trường Trung cấp Nghề Hà Tĩnh ([[Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Việt Nam)|Sở Lao động, Thương binh & Xã hội)]]: 454 Hà Huy Tập, phườngTp [[Đại Nài]]Tĩnh.
[[Tập tin:Trường Trung cấp Nghề Hà Tĩnh.jpeg|nhỏ|trái|300px]]
 
===Trường Trung học Phổ thông===
* [[Trường Trung học phổ thông Chuyên Hà Tĩnh|Trường THPT Chuyên Hà Tĩnh]]: Đường Hà Hoàng, [[Thạch Trung]]
* Trường THPT Phan Đình Phùng: 65 Phan Đình Phùng, phườngPhường [[Bắc Hà (phường)|Bắc Hà]]
* Trường THPT Thành Sen: Đường Nguyễn Huy Long, [[Thạch Trung]]
 
==Hình ảnh==