Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vô ngã”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan |
n Đã lùi lại sửa đổi của 2405:4802:376:9D50:6042:12BC:F2E3:706A (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của InternetArchiveBot Thẻ: Lùi tất cả Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
||
Dòng 1:
{{Wiki hóa}}{{Cần biên tập}}{{Buddhism}}
'''Vô ngã''' (無我, sa. ''anātman'', pi. ''anattā''), là một trong [[Ba pháp ấn
Vô ngã là [[pháp ấn
==Kinh văn==
Dòng 59:
==Thuyết Vô ngã trong Thượng Toạ bộ==
Câu hỏi giáo lý vô ngã thật sự là gì và có đúng là giáo lý của đức
Từ ''attā'' (thân danh từ ''attan'') trong [[tiếng Pali]] là một đại từ phản thân chính quy (''regular reflexive pronoun''), được dịch thành "nơi chính người ấy", "chính tôi" tuỳ trường hợp. Nếu ''attā'' là một thật danh từ (''substantive'') thì cũng không phải lúc nào dịch là "
Thượng Toạ bộ cũng tìm cách tiếp cận vấn đề vô ngã, nhưng lại không hoàn toàn sa lạc vào phương pháp thuần lý luận như [[Thuyết nhất thiết hữu bộ|Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ]]. Họ cũng không tìm cách giải quyết những gì đức
Sự tái sinh không có một tự ngã được đức
:''Các pháp được kiến tạo bởi những pháp khác, kết hợp với những pháp hiện hành để trở thành những kết hợp khác hình thành thế giới hiện hữu, để rồi sau đó huỷ hoại, trở thành nhân duyên cho những pháp khác, nhường chỗ cho những pháp khác xuất hiện. Chúng không phải là những đặc tính của một thật chất, mà phối hợp không cần một chủ thể để trở thành những hiện tượng "con người" và "thế giới". Các pháp tương tự như một giai điệu âm nhạc. Không một âm nào có thể tồn tại lâu hơn một phần giây, một khoảnh khắc người ta có thể nghe được nó, nhưng chính qua đó mà những đơn âm này có thể tiếp nối nhau để tạo thành một giai điệu. Hiện thật chỉ nằm trong thế giới hiện tượng được tạo bởi chư pháp. Không có sự tồn tại, chỉ có sự lưu chuyển''.
Người ta phân biệt hai tiến trình của chư pháp, bên trong và bên ngoài. Tiến trình bên trong giải thích những hiện tượng xảy ra nội tâm, sự thăng trầm của tâm thức chúng ta và sự biến chuyển liên tục của các mối tư duy. Vì
Tiến trình bên ngoài tạo cơ sở lý thuyết cho sự tái sinh không một chủ thể. Một tiến trình được khởi động bằng nghiệp và hình thành một "cá nhân" nhất định tuỳ theo chất lượng của chính nghiệp này. Mặc dù các biểu thị như "khổ", "nghiệp" và "giải thoát" được quy về một chủ thể, nhưng theo Thượng Toạ bộ thì chủ thể này chỉ là một cái gì đó mang tính chất kinh nghiệm, một khối tổng hợp tạm thời của chư pháp, không có một thật thể nào.
Đại luận sư [[Phật
<div class="toccolours">
:Chỉ có khổ, nhưng chẳng có người chịu khổ,
Dòng 87:
Thượng Toạ bộ liệt kê 82 pháp khác nhau và quan trọng ở đây là sự phân loại chư pháp thành hữu vi (pi. ''saṅkhata'') và [[Vô vi (Phật giáo)|vô vi]] (pi. ''asaṅkhata''). Các pháp hữu vi chính là những nhân tố hình thành cuộc sống, thế giới và khổ ách. Pháp vô vi duy nhất là [[Niết-bàn]]. Như đặc tính "vô vi" cho thấy, pháp này không được tạo bởi nghiệp lực mà tồn tại thường hằng.
Như vậy thì theo Thượng Toạ bộ, thế giới chung quy được hình thành bởi
Nhưng qua đó thì một vấn đề khác lại xuất hiện: Sự thừa nhận
:"Việc phản bác một thật thể chủ quan dẫn đến trường hợp thừa nhận hiện thật của các pháp khách quan. Để chứng minh 'con người' không có một
==Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ==
Độc Tử bộ được khai sáng bởi một cao tăng tên Độc Tử (sa. ''vātsīputra'') thuộc Thượng Toạ bộ. Trước khi hoà nhập tăng-già, vị này theo giáo lý Bà-la-môn. Tài liệu của trường phái này đã bị huỷ gần hết, chỉ còn bốn tác phẩm đã được dịch sang Hán văn trong [[Đại Chính Tân Tu Đại Tạng kinh]]. Ngoài ra, người ta có thể tìm thấy lập trường của Độc Tử bộ trong các bộ luận của các trường phái khác.
Đối nghịch quan điểm của các trường phái
===Ba đặc tướng của bổ-đặc-già-la===
Dòng 110:
:乳譬。如是依修多羅等所說。是名依說
:Hỏi: Thế nào là "được xác định qua cơ sở?" Đáp: Tương tự như
</div>
Cơ sở đây chính là ngũ uẩn. Bổ-đặc-già-la này hơn là sự tổng hợp của ngũ uẩn và là nhân tố chính phối hợp đời sống của một cá nhân. Nói cách khác: Bổ-đặc-già-la chính là nhân vật nắm giữ một thân thể, gìn giữ nó một khoảng thời gian nhất định để rồi tiếp nhận một thân thể khác sau khi chết. Bổ-đặc-già-la tương tự một người mang nhiều quần áo khác nhau. Mối tương quan đặc thù giữa ngũ uẩn và bổ-đặc-già-la được gọi là tương tục thống nhất thể của một cá nhân và tương tục thống nhất thểnày là một cái gì đó độc lập không hệ thuộc. Nếu có một tương tục thống nhất thể thì phải có người chủ của sự tương tục này. Bổ-đặc-già-la chính là người sống một thời gian, là người vui mừng hoặc âu lo về nghiệp quả của mình. Bổ-đặc-già-la là cơ sở của trí nhớ, của tâm thức v.v...
Dòng 123:
:應知
:以是行度說是名度說
:Hỏi: Thế nào là "một người được xác định qua sự chuyển đổi (độ 度, sa. ''saṃkrama'')?" Đáp: Vào thời điểm bước từ cuộc sống này sang một cách hiện hữu khác thì
:Nên biết rằng,
</div>
Bổ-đặc-già-la được xác định qua sự chuyển đổi là một cách gọi tương ưng với ba chi phần khác: Quá khứ, vị lai và hiện tại. Sự kiện này chứng minh việc tương tục thống nhất thể không những lưu chuyển trong hiện tại, mà có nguồn gốc từ dĩ vãng và sẽ tiếp tục lưu chuyển trong tương lai. Hơn nữa, đây cũng là cách giải thích của Độc Tử bộ về "người tiếp nhận quả báo", mối tương quan giữa người tạo nghiệp và người thụ nhận.
Dòng 138:
:是名滅說。
:Hỏi: Thế nào là "được xác định qua sự diệt độ (滅, sa. ''nirodha'')?" Đáp: Sau khi nói về sự xác định qua cơ sở và sự xác định qua chuyển đổi,
</div>
Mục đích ở đây là đề cao sự kiện
Theo Độc Tử bộ thì có năm nhân tố có thể nhận thức được (sa. ''jñeya'') mà trong đó, ba nhân tố đầu là ba loại pháp hữu vi, là các pháp ta có thể tìm thấy trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhân tố thứ tư là một pháp vô vi, là Niết-bàn. Nhân tố thứ năm là cái "bất khả thuyết" (sa. ''avaktavya''), chính là bổ-đặc-già-la, chẳng thuộc vào pháp vô vi, mà cũng chẳng thuộc vào pháp hữu vi.
Dòng 148:
Ngoài ra, Độc Tử bộ còn đề xướng 15 thuyết mà trong đó, hai điểm rất quan trọng quy về thuyết vô ngã: 1. Có một thật thể bất hoại và 2. Chỉ có một cái tuyệt đối, là [[Niết-bàn]].
Giáo lý của Độc Tử bộ có thể xem là phản ứng trực tiếp đối đầu thuyết đạt-ma của Thượng Toạ bộ, đặc biệt là các học giả chuyên theo [[A-tì-đạt-ma]]. Độc Tử bộ tìm cách giải quyết vấn đề
Song song với vấn đề phải suy nghĩ như "làm mà không có người làm" cũng có một vấn đề thực tế khác: Tại sao một người nào đó phải trau dồi kiến thức, tuân thủ giới luật và thực hành thiền định nếu không phải chính ông ta thâu nhận những kết quả ấy? Đối với Độc Tử bộ thì luật nhân quả chỉ có ý nghĩa khi có một chủ thể tiếp nhận quả báo của chính mình làm, tốt cũng như xấu.
|