Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Quan Quang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 4:
Trong 2 bộ cổ sử chính thống quan trọng nhất của Việt Nam là [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]] và [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục|Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục]] đều không có ghi chép thông tin gì về Nguyễn Quan Quang.
 
Thông tin ít ỏi về thân thế và khoa cử của ông trích từ sách [[Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục]] được biên soạn dưới triều [[Lê Hiển Tông]] (1740-1786). Thông tin này cũng được ghi nhận trên văn bia số 1 tại Văn miếu Bắc Ninh. Theo đó, Nguyễn Quan Quang là người xã Tam Sơn, huyện [[Đông Ngàn (huyện)|Đông Ngàn]] (thời Trần thuộc châu Vũ Ninh, lộ Bắc Giang; nay thuộc huyện [[Từ Sơn]], tỉnh [[Bắc Ninh]]). Ông thi đỗ [[Trạng nguyên]] khoa thi [[Bính Ngọ]] 1246, tức năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 đời vua [[Trần Thái Tông]], làm quan đến chức Bộc xạ, tặng hàm Đại Tư khôngKhông<ref name=VB1 />.
 
Những thông tin còn lại về hành trạng của ông chỉ còn lưu lại trong các giai thoại dân gian. Theo sách "Văn hiến Kinh Bắc"<ref>''Văn hiến Kinh Bắc''. Tập 1. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, 2002.</ref> thì Nguyễn Quan Quang sinh trong một gia đình nghèo, không có tiền gạo theo học. Lúc nhỏ, ông thường lân la ngoài cửa lớp lúc thầy dạy học trò trong làng, rồi dùng gạch non viết chữ xuống nền sân. Sau được thầy học phát hiện tài năng và cho vào học, ông càng nổi tiếng thông minh, học một biết mười, nhanh chóng lầu thông kinh sử, ứng khẩu thành thơ, thông thái uyên thâm. Gặp khoa thi Hương, ông ứng thi đậu Giải nguyên. Đến thi Hội lại đậu Hội nguyên, khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại tị thủ sĩ, ông đậu Trạng nguyên. Vì vậy người đời đều gọi ông là "ông Tam nguyên".