Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tát-ca phái”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Chuyển dịch các từ Hán-Việt về nguyên tên và âm của tiếng Phạn và tiếng Tạng.
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 3:
 
Tông '''Sakya''' (zh. 薩迦派, bo. ''sakyapa'' ས་སྐྱ་པ་)
Một trường phái của [[Phật giáo Tây Tạng]], mang tên ngôi chùa Sakya—Sakya nghĩa là "Đất xám". Theo lời khải thị của [[A-đề-sa]], [[chùa Tát-ca|chùa Sakya]] được xây dựng năm 1073 và các Tỳ-khưu chùa này tập trung truyền phápPháp [[Kim cương thừa]] với tên là [[Đạo quả]] (道果, bo. ''lam-dre'' ལམ་དང་འབྲས་བུ་).
 
Trường phái này tập trung công sức tu tập và tổ chức lại các Kinh sách của Giáo pháp [[Đát-đặc-la|Tantra]], nhưng cũng có nhiều đóng góp cho [[Nhân minh học]] đạo Bụt và có ảnh hưởng lên nền chính trị Tây Tạng giữa thế kỉ 13 và 14.
 
[[Hình:Sakya Monastery, Tibet, 2006.jpg|thumb|Các nhà sư Tây Tạng trước chùa Sakya|trái]]
Phái này được trở thành độc lập là nhờ công của năm vị [[Lạt-ma|Lama]] sống từ 1092 đến 1280. Đó là: Sa-chenĐức KhánhSachen HỉKunga TạngNyingpo[https://en.wikipedia.org/wiki/Sachen_Kunga_Nyingpo] (sa. ''ānandagarbha'', bo. ''sa chen kun dga´ snying po'' ས་ཆེན་ཀུན་དགའ་སྙིང་པོ་, 1092-1158), hai người con trai là So-namSonam Tse-moTsemo[https://en.wikipedia.org/wiki/Sonam_Tsemo] (bo. ''bsod nams rtse mo'' བསོད་ནམས་རྩེ་མོ་,1142-1182) và Drakpa Gyaltsen[https://treasuryoflives.org/biographies/view/Drakpa-Gyeltsen/2915] (bo. ''drags pa rgyal mtshan'' དྲགས་པ་རྒྱལ་མཚན་, 1147-1216), người cháu Sakya Ban-thiềnPanchen[https://en.wikipedia.org/wiki/Sakya_Pandita] (bo. ''sa skya pan chen'' ས་སྐྱ་པན་ཆེན་, 1182-1251) và Chog-yalChogyal Phag-paPhagpa[https://en.wikipedia.org/wiki/Drog%C3%B6n_Ch%C3%B6gyal_Phagpa] (bo. ''chos rgyal `phags pa'' ཆོས་རྒྱལ་འཕགས་པ་, 1235-1280). Tất cả năm vị này đều được xem là hoá thân của [[Văn-thù-sư-lợi|Mañjuśrī]] (sa. ''mañjuśrī'') và thuộc gia đình Khon.

Trong năm vị thì Sakya Ban-thiềnPanchen (Sakya Pandita) là có ảnh hưởng lớn nhất, Giáo huấn của Ngài bao trùm nhiều ngành khoa học khác nhau. Khả năng về Phạn ngữ vang đến Ấn Độ và Mông Cổ và sau đó Ngài được mời đi Mông Cổ thuyếtchia phápsẻ Pháp và trường phái Sakya lan rộng tại Trung Tây Tạng năm 1249. Trong các thế kỉ sau, phái Sakya đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo Tây Tạng và gây cả ảnh hưởng đến Tỳ-khưu vĩ đại Tsongkhapa và tông của Ngài là [[Cách-lỗ phái|Cách-lỗ]]Gelugpa.
 
Mười tám bộ Kinh, Luận quan trọng được giảng dạy trong trường phái này (sa. ''aṣṭadaśa-mahākīrtigrantha''):