Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Cuba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 212:
 
=== Thay đổi kinh tế ===
Trước khi Hoa Kỳ chính thức tiếp quản chính phủ, họ đã bắt đầu cắt giảm thuế quan đối với hàng hóanhập khẩu của Mỹ vào Cuba, mà không cấp các quyền tương tự cho hàng hóanhập khẩu của Cuba đến Hoa Kỳ..<ref name="Cantón Navarro p. 75">Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. p. 75</ref> Các khoản thanh toán của chính phủ phải được thực hiện bằng đô la Mỹ.<ref>Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. p. 77</ref> Bất chấp việc Tu chính án Foraker, cấm chính phủ chiếm đóng của Hoa Kỳ cấp đặc quyền và nhượng bộ cho các nhà đầu tư Mỹ, nền kinh tế Cuba đã sớm bị tư bản Mỹ chi phối.<ref name="Cantón Navarro p. 75"/> Sự phát triển của các công ty đường ở Mỹ nhanh đến mức vào năm 1905, gần 10% tổng diện tích đất của Cuba thuộc về công dân Mỹ. Đến năm 1902, các công ty Mỹ kiểm soát 80% lượng quặng xuất khẩu của Cuba và sở hữu hầu hết các nhà máy sản xuất đường và thuốc lá.<ref>Cantón Navarro, José. ''History of Cuba''. p. 76</ref>
 
Ngay sau chiến tranh, có một số rào cản nghiêm trọnglớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn hoạt động tại Cuba. Ba phầnrào luậtcản riêngđó biệt —là: Nghị quyết chung năm 1898, Tu chính án Teller và Tu chính án Foraker — đe dọa đầu tư nước ngoài. Nghị quyết chung năm 1898 tuyên bố rằng nhân dân Cuba là những người tự do và độc lập, trong khi Tu chính án Teller tuyên bố thêm rằng Hoa Kỳ không thể sáp nhập Cuba. Hai đạo luật này rất quan trọng trong việc xoa dịu những người chống chủ nghĩa đế quốc khi Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến ở Cuba. Tương tự, Tu chính án Foraker, cấm chính phủ quân sự Hoa Kỳ nhượng bộ cho các công ty Mỹ, đã được thông qua để xoa dịu những người chống chủ nghĩa đế quốc trong thời kỳ chiếm đóng. Mặc dù ba đạo luật này giúp Hoa Kỳ có được chỗ đứng ở Cuba, nhưng chúng lại gây trở ngại cho các doanh nghiệp Mỹ trong việc mua đất và lấy giấy phép. Cuối cùng, Cornelius Van Horne của Công ty Cuba, một công ty đường sắt đầu tiên ở Cuba, đã tìm ra lỗ hổng trong "giấy phép có thể thu hồi" được biện minh bởi luật pháp Tây Ban Nha hiện hành cho phép xây dựng các tuyến đường sắt ở Cuba một cách hiệu quả. Tướng Leonard Wood, thống đốc Cuba và là một nhà thôn tính nổi tiếng, đã sử dụng kẽ hở này để cấp hàng trăm nhượng quyền, giấy phép và các nhượng bộ khác cho các doanh nghiệp Mỹ.<ref>Juan C. Santamarina. "The Cuba Company and the Expansion of American Business in Cuba, 1898–1915". ''Business History Review'' 74.01 (Spring 2000): 41–83. pp. 52–53.</ref>
 
Một khi các rào cản pháp lý đượcbị vượt qua, các khoản đầu tư của Mỹ đã biến đổi nền kinh tế Cuba. Trong vòng hai năm sau khi vào Cuba, Công ty Cuba đã xây dựng một tuyến đường sắt dài 350 dặm nối cảng Santiago phía đông với các tuyến đường sắt hiện có ở miền trung Cuba. Công ty là đơn vị đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Cuba trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Vào những năm 1910, nó là công ty lớn nhất trong cả nước.<ref>Santamarina 2000, p. 42.</ref> Cơ sở hạ tầng được cải thiện đã cho phép ngành mía đường lan rộng đến khu vực phía đông vốn chưa phát triển trước đây của đất nước. Khi nhiều nhà sản xuất mía nhỏ của Cuba lâm vào cảnh khốn cùng vì nợ nần và thiệt hại do chiến tranh, các công ty Mỹ đã có thể tiếp quản ngành mía đường một cách nhanh chóng với giá rẻ mạt. Đồng thời, các đơn vị sản xuất mới được gọi là các ''trung tâm'' có thể xay tới 2.000 tấn mía mỗi ngày, giúp các hoạt động quy mô lớn có lợi nhuận cao nhất.<ref>Smith 1995, p. 33.</ref> Chi phí cố định lớn của các trung tâm này khiến chúng hầu như chỉ có thể tiếp cận được với các công ty Mỹ có vốn cổ phần lớn. Hơn nữa, các trung tâm yêu cầu một dòngnguồn mía lớn, ổn định để duy trì lợi nhuận, điều này dẫn đến sự hợp nhất hơn nữacao trong ngành. Những người nông dân trồng mía ở Cuba trước đây là chủ đất đã trở thành người trồng thuê trên đất của công ty, cung cấp mía thô cho các vùng trung tâm. Đến năm 1902, 40% sản lượng đường của đất nướcCuba do người Bắc Mỹ kiểm soát.<ref>Smith 1995, p. 34.</ref>
 
Với lợi íchcác doanh nghiệp Mỹ bắtthu nhiều lợi nguồnnhuận từ Cuba, hệ thống thuế quan của Mỹ đã được điều chỉnh phù hợp để tăng cường thương mại giữa cáchai quốc gia. Hiệp ước hỗ đi có lạihuệ năm 1903 đã hạ mức thuế quan của Hoa Kỳ đốiđánh vớilên đường Cuba xuống 20%. Điều này đã giúp đường Cuba có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Đồng thời, nó dành những nhượng bộ tương đương hoặc lớn hơn đối với hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Nhập khẩu hàng hóa Mỹ của Cuba từ 17 triệu USD trong 5 năm trước chiến tranh, tăng lên 38 triệu USD vào năm 1905, và cuối cùng lên hơn 200 triệu USD vào năm 1918. Tương tự, xuất khẩu của Cuba sang Hoa Kỳ đạt 86 triệu USD vào năm 1905 và tăng lên gần 300 USD triệu vào năm 1918.<ref>Smith 1995, p. 35.</ref>
 
=== Bầu cử và độc lập ===