Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Douglas MacArthur”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up
Dòng 155:
Một trong các sai lầm lớn nhất của MacArthur là phòng thủ [[Luzon]]. Bộ Tham mưu đã nhận định trước chiến tranh rằng phòng thủ là không thực tiễn. Vì vậy, kế hoạch đối phó với một cuộc tấn công đổ bộ của [[Nhật Bản]] là thi hành một cuộc rút lui trật tự các lực lượng cùng với trang thiết bị và dự trữ về pháo đài vững chắc trên bán đảo [[Bataan]]. Tuy nhiên, MacArthur vứt bỏ kế hoạch này khi quân đội Nhật Bản tấn công đổ bộ vì ông nghĩ rằng ông có thể đánh bại quân Nhật trên chiến trường. Tuy vậy quân Nhật liên tiếp đánh vào sườn lực lượng của ông bằng cách đưa trận chiến ra biển, đánh rồi rút quanh lực lượng của ông. Cuối cùng, lực lượng Hoa Kỳ tháo chạy mà không có đồ dự trữ tiếp liệu và lương thực mà họ cần để về pháo đài Bataan. Sau một cuộc kháng cự kéo dài nhiều tháng, họ bắt buộc phải đầu hàng, đơn giản là vì hết lương thực.
 
Tổng hành dinh của MacArthur trong chiến dịch Philippines 1941-1942 nằm trên pháo đài đảo [[Corregidor]]; chuyến đi duy nhất của ông đến tiền tuyến ở Bataan khiến ông thành đề tài cho biệt danh và bài hát ngắn chế diễu "Dugout Doug" (Douglas trốn dưới hầm).{{efn|MacArthur bị một số binh lính bất mãn đặt biệt danh "Dugout Doug" vì trong [[Trận Bataan]], ông đã dành phần lớn thời gian để trú ẩn trong hầm chỉ huy thay vì chỉ huy trực tiếp trên mặt trận.<ref>{{chú thích web|last1=Dagle|first1=Robbin M.|title=Liberator or ‘Dugout Doug’?: MacArthur’s legacy in the Philippines revisited|url=https://cnnphilippines.com/life/culture/2020/9/8/douglas-macarthur-history-controversy.html|website=CNN Philippines|accessdate=2021-09-18|language=en|date=2020-09-08}}</ref>}} Tuy nhiên, pháo đài của MacArthur được đánh dấu rõ và là mục tiêu của các cuộc không kích của Nhật Bản cho đến khi Manuel Quezon nhắc nhở MacArthur "đừng để chính ông gặp nguy hiểm". Tháng ba năm 1942, khi lực lượng [[Nhật Bản]] xiết chặt vòng vây trên lãnh thổ [[Philippines]], MacArthur được lệnh của [[Franklin D. Roosevelt|Tổng thống Roosevelt]] rời Philippines sang [[Melbourne]], [[Úc]] sau khi Tổng thống Quezon đã rời Philippens. Cùng với vợ ông, con trai bốn tuổi và một nhóm cố vấn, tư lệnh quân sự cấp dưới được chọn, MacArthur cuối cùng tháo chạy khỏi Philippines trên tàu [[PT 41]] do Đại úy [[John D. Bulkeley]] chỉ huy và vượt thoát thành công một cuộc săn đuổi quy mô của Nhật tìm kiếm ông. MacArthur đến [[Mindanao]] vào ngày [[13 tháng 3]] và lên oanh tạc cơ [[Boeing B-17 Flying Fortress|Pháo đài Bay B-17]] ba ngày sau đó. Ngày [[17 tháng 3]], ông đến [[Batchelor, Lãnh thổ Bắc|Sân bay Batchelor]] ở [[Lãnh thổ Bắc]] của [[Úc]] cách [[Darwin]] 60 [[dặm Anh|dặm]] (100&nbsp;km) về phía nam trước khi bay đến [[Alice Springs]] nơi ông đáp xe lửa [[Ghan]] đến [[Adelaide, Nam Úc]]. Bài diễn văn nổi tiếng của ông trong đó ông nói "''I came out of Bataan and I shall return''" (Tôi đến từ Bataan và tôi sẽ trở lại) được viết ở [[Terowie]], [[Nam Úc (tiểu bang)|Nam Úc]] ngày [[20 tháng 3]]. Trong thời gian đó, Tổng thống Quezon trao tặng MacArthur Huân chương Bội tinh Philippines (''Philippine Distinguished Conduct Star'').
 
MacArthur được tặng thưởng [[Huân chương Vinh dự]] (''Medal of Honor'') vì lãnh đạo phòng thủ Philippines. Arthur và Douglas MacArthur là cha con đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Vinh dự. Cả hai vẫn là cha con duy nhất được như thế cho đến năm [[2001]] khi [[Theodore Roosevelt]] được tặng thưởng một sau khi mất vì đã phục vụ trong [[Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ]]. [[Theodore Roosevelt, Jr.]] đã nhận được một vì phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai.