Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 28:
|anniversaries=
}}
'''Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản''' ([[kanji]] cũ: 大日本帝國海軍航空隊, [[rōmaji|romaji]]: ''Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai'', [[phiên âm Hán-Việt]]: ''Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội'') là một binh chủng của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], có sứ mệnh thực hiện các hoạt động không quân trên biển và nhiệm vụ oanh kích trong [[Chiến tranh Thái Bình Dương]]. Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản do [[Bộ quân lệnh (Đế quốc Nhật Bản)|Bộ Tham mưu Hải quân Đế quốc]] và [[Bộ Hải quân (Nhật)|Bộ Hải quân]] phụ trách. Cục Hàng không Hải quân Đế quốc thuộc Bộ Hải quân chịu trách nhiệm phát triển và huấn luyện.[[Tập tin:A_formation_of_Japanese_bombers_attacking_warships_in_the_Java_Sea.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:A_formation_of_Japanese_bombers_attacking_warships_in_the_Java_Sea.jpg|nhỏ|Một đội hình máy bay ném bom của Nhật Bản đanh hứng chịu pháo phòng không, được nhìn thấy từ tàu tuần dương Úc, [[HMAS Hobart (D63)|HMAS Hobart]].|thế=|trái]]

Năm 1910, quân đội Nhật có máy bay đầu tiên. Họ đặc biệt quan tâm tới không quân sau những hiểu biết về không chiến trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Những chiếc máy bay đầu tiên phải mua từ [[châu Âu]] về, nhưng người Nhật đã mau chóng tự chế tạo được rồi lao vào chương trình phát triển các [[tàu sân bay]] đầy tham vọng. Năm 1912, nhánh không quân của Hải quân Nhật được thành lập một cách không chính thức. Năm 1913, [[Wakamiya (tàu mẹ thủy phi cơ Nhật)|Wakamiya]], một chiếc tàu vận tải được cải tạo thành tàu chở [[thủy phi cơ]].
 
Tháng 9 năm 1914, trong [[chiến dịch Thanh Đảo]], những chiếc thủy phi cơ [[Maurice Farman (thủy phi cơ)|Maurice Farman]] xuất phát từ tàu Wakamiya đã oanh tạc các vị trí và tàu chiến của quân Đức. Có lẽ, đấy là những đợt oach kích bằng không quân từ ngoài biển đầu tiên trên thế giới. Và, Wakamiya có thể xem là tàu sân bay đầu tiên trên thực tế.
Hàng 152 ⟶ 154:
{{Main|Cơ cấu tổ chức Không lực Hải quân Đế quốc Nhật}}
 
[[Tập tin:Aircraft_prepare_to_launch_from_Japanese_carrier_Shōkaku_during_Battle_of_the_Santa_Cruz_Islands,_26_October_1942_(80-G-176150).jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Aircraft_prepare_to_launch_from_Japanese_carrier_Sh%C5%8Dkaku_during_Battle_of_the_Santa_Cruz_Islands,_26_October_1942_(80-G-176150).jpg|nhỏ|250x250px|Mitsubishi A6M2 "Zero" mẫu 21 trên boong máy bay của mẫu hạm [[Shokaku]], ngày 26 tháng 10 năm 1942, [[Trận chiến quần đảo Santa Cruz|Trận chiến Quần đảo Santa Cruz.]]]][[Tập tin:A_formation_of_Japanese_bombers_attacking_warships_in_the_Java_Sea.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:A_formation_of_Japanese_bombers_attacking_warships_in_the_Java_Sea.jpg|nhỏ|Một đội hình máy bay ném bom của Nhật Bản đanh hứng chịu pháo phòng không, được nhìn thấy từ tàu tuần dương Úc, [[HMAS Hobart (D63)|HMAS Hobart]].|thế=]]Những phi công ưu tú là các nhóm không quân dựa trên tàu sân bay ([[Kōkūtai]](航空隊), sau này gọi là Kōkū sentai) có số lượng (từ một ít lên tới 80 hoặc 90 máy bay) phụ thuộc vào cả nhiệm vụ và loại tàu sân bay mà họ được đóng quân. Hạm đội tàu sân bay có ba loại máy bay: máy bay chiến đấu, máy bay đánh bom ngang/ném ngư lôi, và máy bay ném bom bổ nhào. Tàu sân bay nhỏ hơn có xu hướng chỉ có hai loại, máy bay chiến đấu và máy bay đánh bom ngang/ném ngư lôi.
 
Những phi công ưu tú là các nhóm không quân dựa trên tàu sân bay ([[Kōkūtai]](航空隊), sau này gọi là Kōkū sentai) có số lượng (từ một ít lên tới 80 hoặc 90 máy bay) phụ thuộc vào cả nhiệm vụ và loại tàu sân bay mà họ được đóng quân. Hạm đội tàu sân bay có ba loại máy bay: máy bay chiến đấu, máy bay đánh bom ngang/ném ngư lôi, và máy bay ném bom bổ nhào. Tàu sân bay nhỏ hơn có xu hướng chỉ có hai loại, máy bay chiến đấu và máy bay đánh bom ngang/ném ngư lôi.
 
Các Kōkūtai trên tàu sân bay có tổng cộng trên 1.500 phi công và nhiều máy bay vào đầu Chiến tranh Thái Bình Dương. Hải quân Nhật cũng duy trì một hệ thống hải đội hàng không trên cạn gọi là ''Kōkū Kantai'' và các hải đội hàng không trong khu vực được gọi là ''Homen Kantai'' có chứa hầu hết là các máy bay ném bom hai động cơ và thủy phi cơ. Tư lệnh cấp cao là '''Hạm đội Không quân Hải quân thứ mười một''', được chỉ huy bởi Phó Đô đốc [[Tsukahara Nishizō|Nishizō Tsukahara]]. Máy bay trên đất liền cung cấp phần lớn lực lượng hàng không của hải quân Nhật Bản cho đến trước Thế chiến thứ hai.{{sfn|Peattie|2007|p=29}}