Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jordi Alba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Sửa dịch máy và thêm nguồn chú thích
Thẻ: Sửa ngày tháng năm Xóa bản mẫu Chất lượng dịch Soạn thảo trực quan
Dòng 12:
| position = [[Tiền vệ (bóng đá)|Tiền vệ]], [[Hậu vệ (bóng đá)|Hậu vệ trái]]
| clubnumber = 18
| youthyears1 = 1998–20051996–1998
| youthclubs1 = [[F.C. Barcelona|Barcelona]]Hospitalense
| youthyears2 = 2005–20071998–2005
| youthclubs2 = [[CornellàF.C. Barcelona|Barcelona]]
| youthyears3 = 20072005–2007
| youthclubs3 = [[Valencia CF|ValenciaCornellà]]
| years1 = 20072006–2007
| clubs1 = [[Valencia BCornellà]]
| caps1 = 1815
| goals1 = 53
| years2 = 2008–20122007–2009
| clubs2 = [[Valencia CF|Valencia]]
| caps2 = 5818
| goals2 = 45
| years3 = 2008–2009
| clubs3 = → [[Gimnàstic]] (Mượn)
| caps3 = 3735
| goals3 = 4
| years4 = 2012–2009–2012
| clubs4 = [[F.Valencia C. BarcelonaF.|BarcelonaValencia]]
| caps4 = 25974
| goals4 = 135
| nationalyears1 = 2011–
| nationalteam1 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]]
| nationalcaps1 = 7879
| nationalgoals1 = 8
| pcupdate = 2217 tháng 510 năm 2021
| ntupdate = 62 tháng 79 năm 2021
| medaltemplates = {{MedalSport|[[Bóng đá]] nam}}
{{MedalCountry|{{ESP}}}}
Dòng 46:
{{MedalCompetition|[[Giải vô địch bóng đá châu Âu|UEFA Euro]]}}
{{Medal|W|[[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012|Ba Lan & Ukraina 2012]]|}}
| years5 = 2012–
| clubs5 = [[F.C. Barcelona|Barcelona]]
| caps5 = 263
| goals5 = 13
}}
 
Hàng 51 ⟶ 55:
 
== Sự nghiệp ==
Sinh ra tại [[L'Hospitalet de Llobregat]], [[Barcelona]], ​​[[Catalunya|Catalonia]], Alba bắt đầu sự nghiệp của mình trong đội trẻ của [[F.C. Barcelona|FC Barcelona]] nhưng đã rời khỏi câu lạc bộ này năm 2005. Sau đó anh gia nhập câu lạc bộ [[Catalan UE Cornellà]] và trong năm 2007, sau gần hai năm, anh đã rời đội này với một thỏa thuận giá 6.000 [[euro|€]] ký với [[Valencia CF]], nơi anh hoàn thành kỹ năng bóng đá. Anh đã ra mắt tại giải chuyên nghiệp của mình ở mùa giải sau, thi đấu cho với tư cách cầu thủ cho mượn với trang phục cấp độ thứ hai [[Gimnàstic de Tarragona]].
{{Chất lượng dịch}}
Sau khi trở về [[Los Che]], Alba đã ra mắt [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]] của mình ngày 13 tháng 9 năm 2009 với chiến thắng 4-2 tại [[Real Valladolid]]. Sau đó anh bắt đầu chơi hai trận liên tiếp tại [[Cúp UEFA Europa League|UEFA Europa League]] vòng đấu bảng trong trận đấu với [[Lille OSC]] và [[SK Slavia Praha]] (1-1 là tỉ số của trận đấu). Do chấn thương trong đội hình phòng thủ của [[Valencia CF]],anh đã chơi nhiều mùa giải 2009-10 với vị trí hậu vệ trái, đăng các màn trình diễn tổng thể ở vị trí đó, ngày 11 tháng 4, năm 2010, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, khi đá với [[R.C.D. Mallorca|RCD Mallorca]].
 
=== Những năm đầu đời ===
Năm 2010-11, vẫn còn [[Unai Emery]] phụ trách, Alba đã được sử dụng hoàn toàn để phòng thủ. Anh đã đóng góp với 27 trận đấu cho [[Valencia CF]].
Sinh ra tại [[L'Hospitalet de Llobregat]], [[Barcelona]], ​​[[Catalunya|Catalonia]], Alba bắt đầu sự nghiệp của mình trong đội trẻ của [[F.C. Barcelona|FC Barcelona]] nhưng đã rời khỏi câu lạc bộ này năm 2005. Sau đó anh gia nhập câu lạc bộ [[Catalan UE Cornellà]] và trong năm 2007, sau gần hai năm, anh đã rời đội với một thỏa thuận giá 6.000 euro ký với [[Valencia CF]]. Anh đã ra mắt bóng đá chuyên nghiệp của mình ở mùa giải sau, thi đấu cho với tư cách cầu thủ cho mượn tại đội bóng [[Segunda División|hạng hai]] [[Gimnàstic de Tarragona]]<ref>{{Chú thích web|url=https://as.com/futbol/2008/07/26/mas_futbol/1217053608_850215.html|tựa đề=Jordi Alba ya es grana y Campano puede quedarse|họ=AS|tên=Diario|ngày=2008-07-26|website=AS.com|ngôn ngữ=es|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>.
Năm 2012, [[Tito Vilanova]] mời anh về [[F.C. Barcelona|FC Barcelona]] để thay thế Abidal, hiện anh đã chơi được 42 trận đấu cho Barcelona (kể cả các trận đấu ở UEFA Champions League và Copa del Rey), ghi được 5 bàn thắng, kiến tạo cho đồng đội 30 bàn. Trong sự nghiệp của anh, Alba chỉ phải nhận 7 chiếc thẻ vàng: 3 ở La Liga, 3 ở Champions League và 1 ở Copa del Rey. Ngay mùa giải đầu tiên tại Catalunya, anh đã đạt được chiếc cúp La Liga. Trong kì chuyển nhượng mùa hè năm ngoái, Alba đã được Manchester United liên hệ nhưng anh đã từ chối để đến với đội bóng mà mình đã khởi nghiệp.
 
=== Valencia ===
== Sự nghiệp Quốc tế ==
Sau khi trở về [[Los Che]] (biệt danh của [[Valencia CF]]), Alba đã có trận ra mắt [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]] ngày 13 tháng 9 năm 2009 trong chiến thắng 4-2 trước [[Real Valladolid]]. Sau đó, anh đá chính hai trận liên tiếp tại vòng bảng UEFA Europa League 2009-10, gồm một trận sân khách trước [[Lille OSC|Lille]] trước khi trở về sân nhà tiếp đón [[SK Slavia Praha]] (hai trận đều có kết quả hòa 1–1).. Do có nhiều chấn thương trong hàng phòng ngự của Valencia, anh đã chơi phần lớn mùa giải 2009–10 ở vị trí hậu vệ trái và có được những màn trình diễn ấn tượng. Ngày 11 tháng 4, năm 2010, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong thất bại 2–3 trước [[R.C.D. Mallorca|RCD Mallorca]].
Alba đại diện cho các quốc gia [[Tây Ban Nha]] dưới 19 nhóm nghiên cứu năm 2008 [[UEFA European Under-19 Championship]] anh cũng là một phần của đội tuyển tại FIFA 200 9U-20 [[Giải bóng đá vô địch thế giới|World Cup]] tại Ai Cập.
 
Vào mùa [[La Liga 2010–11|2010–11]], khi [[Unai Emery]] vẫn là huấn luyện viên trưởng, Alba gần như luôn chơi ở vị trí hậu vệ, cạnh tranh suất đá chính với Jérémy Mathieu. Anh đã chơi 27 trận đấu cho [[Valencia CF]] trong [[La Liga 2010–11|mùa giải La Liga đó]], giúp đội bóng giành vị trí thứ 3 và giành quyền tham dự [[UEFA Champions League 2011–12]].
Alba được gọi lần đầu tiên của mình vào đội tuyển quốc gia vào ngày 30 tháng 9 năm 2011 cho hai UEFA vòng loại [[EURO 2012]], gặp [[Cộng hòa Séc]] và [[Scotland]]. Anh xuất hiện lần đầu của mình trong các trận đấu, vào ngày 11 tháng 10. Màn ra mắt ấn tượng của anh đã khẳng định mình như là một ứng cử viên kế thừa lâu dài cho hậu vệ [[Joan Capdevila]].
 
Mùa giải tiếp theo, Emery tiếp tục sử dụng cả Alba và Mathieu ở vị trí cánh trái, tiếp tục theo đuổi chiến thuật từ mùa trước. Điều này đã chứng tỏ sự hiệu quả khi hai cầu thủ này thường hoán đổi vị trí cho nhau và tích cực hỗ trợ trên cả mặt trận tấn công và phòng ngự. Sau này, Alba đã coi Emery như người thầy quan trọng nhất giúp anh chuyển đổi thành công sang một vị trí có thiên hướng phòng ngự nhiều hơn.
Alba vừa giúp đội tuyển TBN vô địch [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012|Euro 2012]] và chính là sự kế thừa xứng đáng cho hậu vệ [[Joan Capdevila]]. Anh tiếp tục có tên trong danh sách đội tuyển Olympic Tây Ban Nha tham dự [[Thế vận hội Mùa hè 2012]] tổ chức tại thủ đô [[Luân Đôn]] của nước [[Anh]], tuy nhiên đội tuyển Olympic Tây Ban Nha đã bị loại ngay từ vòng bảng với vị trí chót bảng và chỉ giành được 1 điểm, hòa 1 trận, thua 2 trận, thủng lưới 2 bàn và không ghi được một bàn thắng nào.
 
=== Barcelona ===
Ngày 28 tháng 6 năm 2012, Alba đã ký hợp đồng 5 năm có giá trị 14 triệu euro với Barcelona. Anh có trận ra mắt chính thức vào ngày 19 tháng 8 khi chơi đủ 90 phút trong chiến thắng 5[[La Liga 2010–11|–]]1 trước [[Real Sociedad]] trên sân nhà.
 
Alba ghi bàn đầu tiên cho Barcelona ngày 20 tháng 10 năm 2012 với bàn mở tỉ số trong chiến thắng 5–4 trước [[Deportivo de La Coruña|Deportivo La Coruña]], nhưng đồng thời cũng ghi một bàn phản lưới nhà. Ngay trận đấu tiếp theo khi tiếp Celtic trên sân nhà trong khuôn khổ [[UEFA Champions League 2012–13|UEFA Champions League]], Alba đã có một bàn thắng ở phút 90+3, mang về chiến thắng 2–1 ở những phút bù giờ cho đội bóng xứ Catalunya.
 
Ngày 12 tháng 3 năm 2013, Alba ghi bàn thắng thứ 5 trong mùa giải với bàn thắng ở phút cuối giúp Barcelona giành chiến thắng 4–0 trước A.C. Milan ở lượt về vòng 16 đội [[UEFA Champions League 2012–13]] sau khi đã thua 0–2 tại San Siro ở lượt đi. Đội bóng cũng trở thành đội đầu tiên trong lịch sử giải đấu có một pha lội ngược dòng khi bị dẫn trước 2 bàn ở lượt đi và không ghi được bàn nào trên sân khách.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.uefa.com/uefachampionsleague/news/0207-0e9ef7f90314-76c24b4228c7-1000--breathtaking-barcelona-blow-milan-away/|tựa đề=Breathtaking Barcelona blow Milan away|họ=UEFA.com|ngày=2013-03-12|website=UEFA.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Mùa đó Barcelona lên ngôi vô địch La Liga khi thầy trò huấn luyện viên [[Tito Vilanova]] giành lại danh hiệu này từ tay đại kình địch Real Madrid.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.fcbarcelona.com/en/football/first-team/news|tựa đề=News - FC Barcelona Official Channel|website=www.fcbarcelona.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Ngày 2 tháng 6 năm 2015, Alba đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn 5 năm, cùng mức phí giải phóng hợp đồng 150 triệu euro.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.fcbarcelona.com/en/football/first-team/news|tựa đề=News - FC Barcelona Official Channel|website=www.fcbarcelona.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Bốn ngày sau, anh đã chơi trận [[chung kết UEFA Champions League 2015]], giúp đội bóng giành danh hiệu này lần thứ 5 với chiến thắng 3–1 trước [[Juventus F.C.|Juventus]] tại sân vận động [[Sân vận động Olympic (Berlin)|Olympiastadion]], [[Berlin]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.uefa.com/uefachampionsleague/news/0252-0cd2c6a4864d-8c8d00efd1bd-1000--barcelona-see-off-juventus-to-claim-fifth-title/|tựa đề=Barcelona see off Juventus to claim fifth title|họ=UEFA.com|ngày=2015-06-06|website=UEFA.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Xuyên suốt mùa giải 2014–15, anh chơi 38 trận cho Barcelona, ghi 1 bàn và giúp Barca giành [[Cú ăn ba (bóng đá)|cú ăn ba]].<ref>{{Chú thích web|url=https://web.archive.org/web/20150607120500/http://www.fcbarcelona.com/football/first-team/detail/article/barca-make-history-with-second-treble|tựa đề=Barça make history with second treble! {{!}} FC Barcelona|ngày=2015-06-07|website=web.archive.org|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Ngày 22 tháng 5 năm 2016, Alba giành [[Cúp Nhà vua Tây Ban Nha]] thứ hai trong sự nghiệp khi ghi bàn ở phút 97 ở trận chung kết trước Sevilla sau khi đón đường chọc khe của [[Lionel Messi]], giúp đội bóng giành chiến thắng 2–0 sau hiệp phụ tại sân Vicente Calderón, [[Madrid]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.marca.com/eventos/marcador/futbol/2015_16/copa/final/bar_sev/|tựa đề=Barcelona vs Sevilla: resumen, goles y resultado|ngày=2016-05-20|website=MARCA.com|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Ngày 11 tháng 3 năm 2019, anh đặt bút ký vào bản hợp đồng có thời hạn 5 năm cùng mức phí giải phóng hợp đồng 500 triệu euro.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.fcbarcelona.com/en/news/1082434/jordi-alba-a-blaugrana-until-2024|tựa đề=Jordi Alba, a blaugrana until 2024|website=www.fcbarcelona.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Alba bỏ lỡ 50% số trận đấu của mùa giải 2019–20, bỏ lỡ 12 trên 24 trận đấu vì chấn thương liên quan tới cơ đùi sau.<ref>{{Chú thích web|url=https://barcauniversal.com/analysis-jordi-alba-attacking-prowess/|tựa đề=Analysis: Jordi Alba, attacking prowess|họ=Ram|tên=Sachin Prabhu|website=Barca Universal|ngày lưu trữ=2020-05-08|url-status=live}}</ref>
 
Anh đã có màn trình diễn tốt nhất sự nghiệp ở mùa 2020–21 với 5 bàn và 13 kiến tạo trên mọi đấu trường, đồng thời giành chức vô địch [[Cúp Nhà vua Tây Ban Nha]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.fcbarcelona.com/en/football/first-team/news/2043460/jordi-alba-the-defender-with-the-most-goals-and-assists|tựa đề=Jordi Alba, the defender with the most goals and assists|website=www.fcbarcelona.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Ngày 9 tháng 8 nàm 2021, Jordi Alba được chọn làm đội phó thứ ba của Barcelona khi Lionel Messi đã rời đi trước mùa giải 2021–22.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.sport.es/es/noticias/barca/jordi-alba-cuarto-capitan-barca-11977781|tựa đề=Jordi Alba, cuarto capitán del Barça|họ=Sport|ngày=2021-08-09|website=sport|ngôn ngữ=es|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
== Sự nghiệp quốc tế ==
Alba đã chơi cho đội tuyển U19 Tây Ban Nha tại [[Giải vô địch các đội tuyển U19 Châu Âu 2008]].
 
Alba được gọi lần đầu tiên vào đội tuyển quốc gia vào ngày 30 tháng 9 năm 2011 cho hai trận cuối ở [[Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2012|vòng loại UEFA Euro 2012]], gặp [[Cộng hòa Séc]] và [[Scotland]]. Anh có trận ra mắt vào ngày 11 tháng 10 trong chiến thắng 3–1 trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Scotland|Scotland]]. Màn ra mắt ấn tượng của anh đã khẳng định mình là một ứng cử viên kế thừa lâu dài cho hậu vệ [[Joan Capdevila]]. Ngoài ra Alba còn được gọi vào đội tuyển U23 Tây Ban Nha thi đấu tại [[Thế vận hội Mùa hè 2012|Olympic London 2012]].<ref>{{Chú thích báo|title=Spain pick Euros trio for Games|language=en-GB|work=BBC Sport|url=https://www.bbc.co.uk/sport/olympics/18693622|access-date=2021-10-19}}</ref>
 
Anh đã chơi tất cả các trận của đội tuyển Tây Ban Nha tại vòng chung kết Euro 2012, giải đấu mà La Roja đã lên ngôi vô địch. Alba là người tật bóng cho Xabi Alonso mở tỉ số trong chiến thắng 2–0 trước Pháp ở tứ kết. <ref>{{Chú thích web|url=https://www.uefa.com/uefaeuro-2020/news/0252-0cdc4f07099e-099b47486ed3-1000--centurion-alonso-sends-spain-past-france-into-euro-2012-last-fo/|tựa đề=Centurion Alonso sends Spain past France into EURO 2012 last four|họ=UEFA.com|ngày=2012-06-23|website=UEFA.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Sau đó, anh đón đường chuyền của Xavi để ghi bàn thắng thứ 2 trong chiến thắng 4–0 trước Ý ở trận chung kết.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.uefa.com/uefaeuro-2020/news/0252-0cdc4f07099d-36a02f333f87-1000--spain-overpower-exhausted-italy-to-win-uefa-euro-2012-final/|tựa đề=Spain overpower exhausted Italy to win UEFA EURO 2012 final|họ=UEFA.com|ngày=2012-07-01|website=UEFA.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Alba được chọn để chơi 4 trận ở Confederations Cup 2013, đồng thời ghi 2 bàn trong chiến thắng 3–0 trước Nigeria ở vòng bảng.
 
Anh tiếp tục được Vicente Del Bosque lựa chọn vào đội hình Tây Ban Nha tham gia FIFA World Cup 2014, tuy nhiên chỉ đá ba trận do các nhà đương kim vô địch bị loại từ vòng bảng.<ref>{{Chú thích web|url=https://fifa.com/|tựa đề=FIFA|website=fifa.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Anh cũng được chọn vào đội hình tham dự FIFA World Cup 2018 và UEFA Euro 2020.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.goal.com/en/news/morata-misses-out-on-spain-world-cup-squad/1ub1qz7jod09i1lfvdcy84ea2l|tựa đề=Spain World Cup squad news: Chelsea star Alvaro Morata misses out on Russia 2018 {{!}} Goal.com|website=www.goal.com|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.independent.co.uk/sport/football/trent-alexander-arnold-injury-england-euros-b1859226.html|tựa đề=Trent Alexander-Arnold to miss Euro 2020 due to injury|ngày=2021-06-03|website=The Independent|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
Do đội trưởng tuyển Tây Ban Nha là [[Sergio Busquets]] bị nhiễm [[Bệnh virus corona 2019|COVID-19]], Alba sẽ là đội trưởng của Tây Ban Nha cho đến khi có thông báo mới.<ref>{{Chú thích web|url=https://en.as.com/en/2021/06/09/soccer/1623261809_428723.html|tựa đề=Euro 2020: new Spain captain Jordi Alba talks exclusively to AS|ngày=2021-06-09|website=AS.com|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref>
 
== Phong cách thi đấu ==
Jordi Alba là mẫu hậu vệ trái toàn diện, có khả năng lên công về thủ rất tốt với tốc độ, kỹ thuật cá nhân thượng hạng. Anh được biết đến với khả năng phối hợp, chọn vị trí và chạy chỗ tốt. Đồng thời, Alba cũng có khả năng kiến tạo tốt tạt bóng từ cánh, và có thể di chuyển bất ngờ vào trung lộ, tận dụng khoảng trống được đối phương tạo ra. Tuy vậy, một số chuyên gia cho rằng điểm yếu của Alba nằm ở khả năng phòng ngự, tuy vậy kỳ năng này của anh đã dần được cải thiện theo thời gian thi đấu. <ref>{{Chú thích web|url=http://sportsillustrated.cnn.com/soccer/news/20130625/confederations-cup-semifinals-spain-vs-italy/?sct=sc_wr_a1|tựa đề=As opponents adapt, Jordi Alba helping to give Spain a new dimension|họ=Wilson|tên=Jonathan|website=Sports Illustrated|ngày lưu trữ=2013-06-27|url-status=live}}</ref>Tốc độ và thể lực tốt giúp Alba có thể tham gia nhiều tình huống cả tấn công và phòng ngự.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.barcablaugranes.com/2012/9/2/3284888/getting-to-know-jordi-alba|tựa đề=Getting To Know: Jordi Alba|họ=Cernensek|tên=Bostjan|ngày=2012-09-02|website=Barca Blaugranes|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Nhờ khả năng di chuyển rất nhanh từ sân nhà sang phần sân đối phương, anh có thể tràn lên tấn công và ghi bàn hoặc nhanh chóng lùi về phòng ngự, chống phản công khi đội nhà mất bóng.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.goal.com/en-sg/news/3882/spain/2013/09/09/4248361/jordi-alba-will-become-better-than-roberto-carlos-says|tựa đề=Jordi Alba will become better than Roberto Carlos, says Capdevila {{!}} Goal.com|website=www.goal.com|ngày truy cập=2021-10-19}}</ref> Anh được coi là một trong những hậu vệ cánh trái xuất sắc nhất thế giới và cũng đã nhận được những lời khen ngợi từ các cựu hậu vệ Joan Capdevila và [[Roberto Carlos]].<ref>{{Chú thích báo|date=2013-09-08|title=Fullback Alba giving Spain added goalscoring value|language=en|work=Reuters|url=https://www.reuters.com/article/soccer-world-spain-alba-idINDEE98709220130908|access-date=2021-10-19}}</ref>
Jordi Alba là mẫu Hậu vệ cánh toàn diện, có khả năng lên công về thủ rất tốt với tốc độ, kỹ thuật cá nhân thượng hạng.
 
==Thống kê sự nghiệp==
===Câu lạc bộ===
{{updated|2217 tháng 510 năm 2021}}<ref>{{chú thích báo|url=http://uk.soccerway.com/players/jordi-alba-ramos/60883/|title=Jordi Alba|publisher=Soccerway|access-date =ngày 10 tháng 4 năm 2014}}</ref><ref>{{ESPNsoccernet|121021}}</ref>
{| class="wikitable" style="text-align: center;"
|-
!rowspan="2"|Câu lạc bộ
!rowspan="2"|Mùa giải
!
!colspan="2"|La Liga
! colspan="2" |Giải VĐQG
!colspan="2"|[[Copa del Rey]]
!colspan="2"|Châu Âu
Hàng 81 ⟶ 115:
!colspan="2"|Tổng cộng
|-
!Giải đấu
!Số lần ra sân!!Số bàn thắng!!Số lần ra sân!!Số bàn thắng!!Số lần ra sân!!Số bàn thắng!!Số lần ra sân!!Số bàn thắng!!Số lần ra sân!!Số bàn thắng
|-
|Cornellà
|rowspan="2" valign="center"|[[Gimnàstic de Tarragona|Gimnàstic]]
|2006–07
|Primera Catalana
|15
|3
| colspan="2" |—
| colspan="2" |—
| colspan="2" |—
|15
|3
|-
| valign="center" |[[Gimnàstic de Tarragona|Gimnàstic]] (cho mượn)
|[[Giải bóng đá hạng hai Tây Ban Nha 2008–09|2008–09]]
|[[Segunda División]]
|35||4||1||0||colspan="4"|—||36||4
|35||4||1||0|| colspan="2" |—
|-
| colspan="2" |—||36||4
!Tổng cộng
!35!!4!!1!!0!!colspan=4|—!!36!!4
|-
|rowspan="4" valign="center"|[[Valencia CF|Valencia]]
|[[La Liga 2009–10|2009–10]]
|[[La Liga]]
|15||1||2||0||9||0||colspan="2"|—||26||1
|-
|[[La Liga 2010–11|2010–11]]
|La Liga
|27||2||4||0||3||0||colspan="2"|—||34||2
|-
|[[La Liga 2011–12|2011–12]]
|La Liga
|32||2||8||0||10||1||colspan="2"|—||50||3
|-
!Tổng cộng
!
!74!!5!!14!!0!!22!!1!!colspan=2|—!!110!!6
|-
| rowspan="1011" valign="center" |[[FC Barcelona|Barcelona]]
|2012–13
|La Liga
|29||2||5||1||9||2||1||0||44||5
|-
|2013–14
|La Liga
|15||0||5||0||4||0||2||0||26||0
|-
|2014–15
|La Liga
|27||1||6||1||11||0||colspan=2|—||44||2
|-
|2015–16
|La Liga
|31||0||3||1||9||0||2||0||45||1
|-
|2016–17
|La Liga
|26||1||6||0||6||0||1||0||39||1
|-
|2017–18
|La Liga
|33||2||5||1||8||0||2||0||48||3
|-
|2018–19
|La Liga
|36||2||6||0||11||1||1||0||54||3
|-
|2019–20
|La Liga
|27||2||3||0||5||0||1||0||36||2
|-
|2020–21
|La Liga
|35||3||5||2||7||0||2||0||49||5
|-
|2021–22
!Tổng cộng
|La Liga
!259||13||43||6||70||3||13||0||385||22
|4
|0
|0
|0
|1
|0
|0
|0
|5
|0
|-
! colspan="2" |Tổng cộng
!263||13||43||6||71||3||13||0||390||22
|-
! colspan="23" |Tổng cộng sự nghiệp
!368387||2225||58||5||9293||4||13||0||531551||3235
|}
 
Hàng 146 ⟶ 217:
! Đội tuyển quốc gia!! Năm!! Số lần ra sân!! Số bàn thắng
|-
| rowspan="1011" valign="center" |[[Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]]
| 2011 || 2 || 0
|-
Hàng 165 ⟶ 236:
| 2019 || 3 || 0
|-
|2020
| 2021 || 8 || 0
|0
|0
|-
| 2021 || 9 || 0
|-
! colspan="2" | Tổng cộng!! 7879!! 8
|}
 
Hàng 178 ⟶ 253:
| 2. || 12 tháng 10 năm 2012 || [[Sân vận động Dynama (Minsk)|Sân vận động Dynama]], [[Minsk]], [[Belarus]] || {{fb|BLR}} || '''1'''–0 || 4–0 || [[Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Âu|Vòng loại World Cup 2014]]
|-
| 3. || rowspan="2"| 23 tháng 6 năm 2013 || rowspan="2"| [[Sân vận động Castelão]], [[Fortaleza]], [[Brasil]] || rowspan="2"| {{fb|NGA}} || '''1'''–0 || rowspan="2"| 3–0 || rowspan="2"| [[Cúp Liên đoàn các châu lục 2013|ConfedConfederations Cup 2013]]
|-
| 4. || '''3'''–0
|-
| 5. || 6 tháng 9 năm 2013 || [[Sân vận động Olympic Helsinki]], [[Helsinki]], [[Phần Lan]] || {{fb|FIN}} || '''1'''–0 || 2–0 || [[Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Âu|Vòng loại World Cup 2014]]
|-
| 6. || 5 tháng 9 năm 2015 || [[Sân vận động Carlos Tartiere]], [[Oviedo]], [[Tây Ban Nha]] || {{fb|SVK}} || '''1'''–0 || 2–0 || [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016 (vòng loại)|Vòng loại Euro 2016]]