Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Trung Tông (Hậu Lê)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 44:
| tôn hiệu =
| miếu hiệu = [[Trung Tông]] (中宗)
| thụy hiệu = <font color = "grey">Vũ hoàngHoàng đế (武皇帝)</font>
| cha = [[Lê Trang Tông]]
| mẹ = [[ Trinh Thục Dụ hoàngHoàng hậu]]
| sinh = [[1535]]
| nơi sinh =
Dòng 58:
| chữ ký =
}}{{Vua nhà Hậu Lê (theo năm)}}
'''Lê Trung Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎中宗 [[1535]] - [[24 tháng 1]], [[1556]]) là vị hoàngHoàng đế thứ hai của [[nhà Lê trung hưng]] và là thứ 13 của [[nhà Hậu Lê]], ở ngôi từ năm [[1548]] đến năm [[1556]], cả thảy tám8 năm.
 
==Thân thế==
Ông là con trai trưởng của [[Lê Trang Tông]], vị vua thứ 12 của [[triều Hậu Lê]], vua đầu của [[nhà Lê Trung hưng|nhà Lê trung hưng]], mẹ là Trinh Thục hoàngHoàng thái hậu [[Trịnh Thị Ngọc Cửu]] - cháu 4 đời của Thượng đẳng Phúc thần Đại vương [[Trịnh Khắc Phục]], quê làng Thủy Chú (nay là xã Xuân Thắng, huyện [[Thọ Xuân]], tỉnh [[Thanh Hóa]]) - theo gia phả Hán văn của họ Trịnh (Thủy Chú).
 
==Làm vua==
Năm [[1548]], ngày [[29 tháng 1]], Trang Tông mất, [[Thái tử]] Huyên lập tức kế vị, lấy niên hiệu '''Thuận Bình''' (顺平). Ông lên ngôi khi đã 13 tuổi, và mọi việc do Thái sư Lượng quốc công [[Trịnh Kiểm]] đứng ra giúp đỡ. Dưới thời Trung Tông hoàngHoàng đế, vùng kiểm soát của [[nhà Lê]] tiếp tục được mở rộng, tiếng vang lan ra đến [[Thăng Long]].
 
Năm [[1551]], tướng [[nhà Mạc]] là [[Lê Bá Ly]] cùng thông gia [[Nguyễn Thiến]] đem gia quyến và 14.000 quân chạy vào [[Thanh Hóa]] theo [[nhà Lê trung hưng]].
Dòng 73:
 
Thời Lê trung hưng, khoa thi Chế đầu tiên được tổ chức vào năm [[1554]] tại hành cung Vạn Lại ([[Thanh Hóa]]). Trên văn bia đặt tại [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám]] còn ghi về khoa thi này như sau:<ref name="VBGD">{{Chú thích web|url=http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1185&Catid=564|tựa đề=15 - Văn bia đề danh chế khoa Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình năm thứ 6 (1554)|ngày=2009-01-23|website=Viện Nghiên cứu Hán Nôm|url-status=live|ngày truy cập=2021-08-04}}</ref>
:''"Bấy giờ, những dũng tướng nanh vuốt xông pha ở nơi tên đạn thì nhiều mà mưu thần tâm phúc giúp vận trù ở nơi màn trướng thì ít. Bèn vào năm [[Giáp Dần]], niên hiệu Thuận Bình thứ sáu bắt đầu đặt [[Chế khoa]], đích thân [[hoàngHoàng đế]] ra đề thi văn sách hỏi về đạo trị nước xưa nay. Chế khoa năm đó lấy đỗ 13 tiến sĩ chia làm hai giáp: Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân (gồm 5 vị) và Đệ nhị giáp đồng Chế khoa xuất thân (8 vị)"''.
 
Từ đó, hào kiệt, danh sĩ tứ phương tìm về theo [[nhà Lê]] ngày càng đông, các sĩ tử cũng tìm về Vạn Lại. Dưới sự trị vì của Trung Tông, một [[Nam-Bắc triều|Nam triều]] có đầy đủ quan văn, quan võ được thiết lập, nhiều sắc phong và lệnh chỉ đã được ban ra.
 
Ngày [[24 tháng 1]] năm [[Bính Thìn]] ([[1556]]), Trung Tông băng hà tại hành cung Vạn Lại, hưởng dương 22 tuổi. Ông được an táng tại Diên lăng (延陵), [[miếu hiệu]] là [[Trung Tông]] (中宗), thụy là '''Vũ hoàngHoàng đế'''.
 
Vì Trung Tông không có con nối ngôi, [[Trịnh Kiểm]] đã sai người tìm cháu họ Lê để lập lên ngôi. Sau nhiều ngày, triều đình tìm được cháu của [[Lê Trừ]], anh thứ hai của [[Lê Thái Tổ|Thái Tổ Lê Lợi]] là Lê Duy Bang hiện khi đó đang ở hương Bố Vệ,<ref>Ở phía nam thị xã Thanh Hóa ngày nay.</ref> huyện Đông Sơn, lập lên ngôi, tức là [[Lê Anh Tông]]. Từ đây các hoàngHoàng đế nhà Lê không còn là chính mạch của Thái Tổ Cao hoàngHoàng đế [[Lê Lợi]]. (Dòng dõi của Lê Thái Tổ tuy vẫn còn nhưng không được đưa lên làm hoàngHoàng đế nữa.)
 
== Gia quyến ==
Phối ngẫu: Nguyễn thị (con gái [[Nguyễn Kim]]).