Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tần Huệ Văn hậu”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Tiểu sử: Bổ sung nội dung Thẻ: Đã bị lùi lại Thêm nội dung không nguồn Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
→Tiểu sử: Sửa lỗi chính tả, bổ sung nội dung. Thẻ: Đã bị lùi lại Thêm nội dung không nguồn Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 34:
Năm [[Chu Hiển vương]] thứ 35 ([[334 TCN]]), Huệ Văn hậu được đưa đến nước Tần, thành hôn với quân chủ nước Tần là Doanh Tứ, người đã lên ngôi được 4 năm. Khi ấy bà được gọi là '''Sở phu nhân''' (魏夫人)<ref>[[Sử ký]], quyển 15, phần ''"Lục quốc niên biểu"'' chép:(秦惠文王)四年,魏夫人来。. Theo sách ''[[Sử ký tập giải]]'', mục ''"Tần bản kỷ"'' thì lại ghi nhận bà nguyên là người [[nước Sở]], nhà nghiên cứu [[Dương Khoan]] đã phủ nhận quan điểm này, điều này càng khẳng định nhận định trên là đúng.<ref name="duongkhoan">{{chú thích sách|author= Dương Khoan|title= Chiến Quốc sử liệu biên niên tập chứng|year= tháng 11 năm 2001 |publisher= Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải |location= |isbn=7208031851}}</ref>.
Năm [[329 TCN]], Huệ Văn quân xưng [[tước Vương]], các phu nhân luôn tranh giành sự sủng ái,
Vương hậu của Tần Vũ vương là tông thất [[nước Ngụy]], không có con trai, vấn đề kế vị nước Tần rơi vào khủng hoảng. Các em trai của Tần Vũ vương tranh đoạt Vương vị. Trong số các Công tử, Huệ Văn hậu chủ trương ủng lập [[Doanh Tráng|Công tử Tráng]], là người con trai lớn nhất còn sống của Huệ Văn vương. Ông tự xưng [''"Quý quân"''], tạo nên [[Quý quân chi loạn]] (季君之乱). Đại phu [[Ngụy Nhiễm]], em cùng mẹ khác cha với [[Tần Tuyên thái hậu|Mị Bát tử]], bấy giờ đang thực quyền chưởng ác triều chính, ủng lập cháu trai mình là [[Tần Chiêu Tương vương|Công tử Tắc]], vốn đang là [[con tin]] ở [[Yên (nước)|nước Yên]] kế thừa Vương vị. Cùng lúc đó [[Triệu Vũ Linh vương]] cũng can thiệp vào nước Tần<ref name="Sử ký, Tần bản kỉ"/>, hợp sức với Ngụy Nhiễm đưa Doanh Tắc lên ngôi, tức [[Tần Chiêu Tương vương]]. Mị Bát tử nhờ vậy được tôn làm [[Thái hậu]].
|