Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ukita Hideie”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Thêm tập tin Thêm liên kết dưới Liên kết ngoài hoặc Tham khảo
Dòng 1:
{{đang viết}}
{{Infobox Officeholder
| name = Ukita Hideie<br/>宇喜多 秀家
Hàng 23 ⟶ 22:
}}
 
{{nihongo|'''Ukita Hideie'''|宇喜多 秀家|hanviet=Vũ Hỉ Đa Tú Gia|extra=1573 – 17 tháng 12 năm 1655}} là ''[[daimyō]]'' hai phiên [[Tỉnh Bizen|Bizen]] và [[Tỉnh Mimasaka|Mimasaka]] ([[Okayama]] ngày nay) và là một trong năm vị ''[[Go-tairō]]'' do [[Toyotomi Hideyoshi]] bổ nhiệm với mục đích làm nhiếp chính cho ấu tử [[Toyotomi Hideyori]].<ref>Kodansha. (1983). "Ukita Hideie", in ''Kodansha Encyclopedia of Japan,'' Vol. 8, pp. 137–138.</ref>
 
== Tiểu sử ==
Phụ thân của Hideie là Ukita Naoie, ''daimyō'' phiên Bizen, tuy ban đầu chống đối nhưng về sau đã quy thuận [[Oda Nobunaga]] và [[Toyotomi Hideyoshi]].<ref>{{cite web|URL=https://kotobank.jp/word/%E5%AE%87%E5%96%9C%E5%A4%9A%E7%9B%B4%E5%AE%B6-19295|title=朝日日本歴史人物事典「宇喜多直家」の解説|publisher=kotobank|access-date=23 October 2021}}</ref> Năm 1581, Naoie qua đời và Hideie trở thành người đứng đầu gia tộc Ukita khi chỉ mới 8 tuổi vào năm 1582. Do Hideie lúc bấy giờ còn nhỏ, người chú là Ukita Tadaie nắm quyền chỉ huy quân đội gia tộc Ukita cho đến khi Hideie trưởng thành. Cũng trong năm 1582, gia tộc Ukita theo chân Toyotomi Hideyoshi, lúc bấy giờ còn mang tên Hashiba Hideyoshi, vây đánh thành Takamatsu. Trong thời gian vây hãm, Hideyoshi được tin [[Oda Nobunaga]] bị hạ sát trong [[Sự kiện Honnōji|Sự biến Chùa Honnō]]. Sau khi thành Takamatsu bị hạ hai ngày sau đó, Hideyoshi đã tức tốc quay trở lại Kyoto và trao quyền quản lý phiên Bizen, Mimasaka, và một phần mới chiếm được của phiên Bitchū cho gia tộc Ukita, đồng thời giao cho họ nhiệm vụ canh chừng [[Mōri Terumoto]] ở phía Tây.
 
Năm 1585, quân đội gia tộc Ukita dưới trướng Ukita Tadaie tham gia chiến dịch Shikoku chống lại Chosokabe Motochika của Hideyoshi.<ref name=Turnbull>{{cite book|last1=Turnbull|first1=Stephen|title=The Samurai Sourcebook|date=1998|publisher=Cassell & Co|location=London|isbn=9781854095237|page=236}}</ref> Năm 1586, Ukita Hideie kết hôn cùng con gái nuôi của Hideyoshi là Gōhime (con gái ruột của [[Maeda Toshiie]]).<ref>{{cite web|URL=https://kotobank.jp/word/%E5%AE%87%E5%96%9C%E5%A4%9A%E7%A7%80%E5%AE%B6-34359|title=朝日日本歴史人物事典「宇喜多秀家」の解説|publisher=kotobank|access-date=23 October 2021}}</ref> Năm 1590, Hideie đích thân dẫn quân bản bộ theo Hideyoshi tiến đánh [[Hōjō Ujimasa]] trong [[Cuộc vây hãm Odawara (1590)|Chiến dịch Odawara]].
 
Trong [[Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598)#Cuộc xâm lược lần thứ nhất (1592–1593)|Chiến tranh Nhâm Thìn]], Ukita Hideie được trao quyền chỉ huy lực lượng dự bị. Đầu năm 1593, sau khi người Nhật rút lui khỏi Bình Nhưỡng, Ukita Hideie tham gia quân tiên phong của [[Kobayakawa Takakage]], thành công phục kích tiêu diệt 5.000 kỵ binh truy kích của [[Lý Như Tùng]] tại gần [[trận Byeokjegwan|Bích Đề quán]] (Byeokjegwan). Nhờ chiến công tại Triều Tiên, Ukita Hideie được bổ nhiệm làm ''[[chūnagon]]'' (trung nạp ngôn). Trong [[Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598)#Cuộc xâm lược lần thứ hai (1597–1598)|Chiến tranh Đinh Dậu]] năm 1597, Ukita Hideie trở thành chỉ huy Tả quân quân Nhật, dẫn 5 vạn binh lính tiến [[Trận thành Nam Nguyên|đánh thành Nam Nguyên]] và các đạo [[Jeolla|Toàn La]], [[Chungcheong|Trung Thanh]]. Năm 1598, sau khi quay trở lại Nhật Bản, Ukita Hideie được Hideyoshi chọn làm một trong năm vị ''[[Go-tairō]]''. Lúc bấy giờ, ông chỉ mới 26 tuổi, là người trẻ nhất trong số những người được chọn.
Hàng 38 ⟶ 37:
 
== Lưu đày ==
[[Tập tin:Ukita Hideie's grave in Hachijojima 01.jpg|nhỏ|Mộ phần của Ukita Hideie trên đảo [[Hachijō-jima|Hachijō]]]]
Năm 1603, sau khi [[Tokugawa Ieyasu]] trở thành ''shōgun'', [[Shimazu Tadatsune]] đã báo cáo nơi ở của Ukita Hideie lên chính quyền mạc phủ mới. Sau khi bị buộc phải trình diện trước Ieyasu, Hideie cùng với một số thuộc hạ và hai người con bị xử tội lưu đày tới đảo [[Hachijō-jima|Hachijō]] trên [[Biển Philippines]]. Vợ ông quay trở về gia đình bên ngoại là gia tộc Maeda và thường xuyên gửi quà cáp tới chồng và các con.
 
Sau khi Ieyasu qua đời vào năm 1616, Hideie được chính quyền mạc phủ ân xá song ông đã từ chối và không bao giờ quay trở lại đất liền. Ngày 17 tháng 12 năm 1655, Hideie qua đời sau hơn 50 năm lưu đày, thọ 82 tuổi. Ông sống lâu hơn vợ của mình và tất cả ''daimyō'' của [[thời kỳ Sengoku]], với một ngoại lệ duy nhất là [[Sanada Nobuyuki]]. Không có ghi chép nào cho thấy ông đã cưới vợ lẻ và sinh thêm bất kỳ người con nào khác trên đảo Hachijō. Nhiều hậu duệ của hai con trai ông đã quay trở lại đất liền khi họ được ân xá hoàn toàn vào thời Mạc mạt.
 
== Tham khảo ==
{{reflist}}
 
== Thư mục ==
* [[Kodansha]]. (1983). "Ukita Hideie," in ''Kodansha Encyclopedia of Japan''. Tokyo: Kodansha. [http://www.worldcat.org/title/kodansha-encyclopedia-of-japan/oclc/233144013 OCLC 233144013]
 
== Liên kết ngoài ==
{{commons}}
* [http://www.city.okayama.jp/museum/rekidai/ukita/hideie.htm Okayama City's page on Hideie] {{in lang|ja}}
 
{{s-start}}
{{succession box
| title=Người đứng đầu [[Gia tộc Ukita]]
| before=[[Ukita Naoie]]
| after=[[Ukita Hidetaka]]
| years=1582–1600
}}
{{s-end}}
{{People of the Sengoku period|state=autocollapse}}
{{Authority control}}
 
[[Category:Sinh 1573]]
[[Category:Mất 1655]]
[[Category:Daimyo]]
[[Category:Tairō]]
[[Category:Gia tộc Ukita]]