Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bóng đá tổng lực”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 1:
'''Bóng đá tổng lực''' ([[tiếng Hà Lan]]: ''totaalvoetbal'') là một thuật ngữ được dùng để chỉ một thứ bóng đá đẹp mắt và có tính hiệu quả cao. Khi một đội bóng áp dụng bóng đá tổng lực, lượng cầu thủ tham gia tấn công đông hơn (hậu vệ cũng có thể tham gia tấn công), lượng cầu thủ tham gia phòng ngự cũng đông hơn (tiền đạo cũng có thể tham gia vào phòng ngự) do đó tạo nên hiệu quả cao. Phương thức này được tìm ra bởi Huấn luyện viên nổi tiếng [[người Hà Lan]] [[Rinus Michels]] vào những năm cuối thập niên 1960 khi ông đang dẫn dắt Câu lạc bộ [[Ajax Amsterdam]] và [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan]]. Và [[Johan Cruyff]] cũng đã góp công lớn về việc phát triển chiến thuật bóng đá tổng lực này.
 
 
== Xem thêm ==
== Bóng đá tổng lực (tiếng Hà Lan: totaalvoetbal) là một hệ thống chiến thuật trong bóng đá liên kết, trong đó bất kỳ cầu thủ nào ở ngoài sân có thể đảm nhiệm vai trò của bất kỳ cầu thủ nào khác trong đội. Mặc dù câu lạc bộ Hà Lan Ajax và đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan nói chung được cho là đã tạo ra hệ thống này trong suốt những năm 1970, nhưng có những đội khác đã chơi theo phong cách tương tự trước đây, chẳng hạn như đội Wunderteam của Áo những năm 1930, đội Argentina "La Maquina" của River Plate vào những năm 1940, Đội Vàng của Hungary trong những năm 1950, Đội bóng Anh Burnley vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, và đội bóng của Brazil là Santos trong những năm 1960. ==
 
== Trong Bóng đá tổng lực, một cầu thủ rời khỏi vị trí của anh ta sẽ được thay thế bằng một người khác trong đội của anh ta, do đó vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức dự kiến ​​của đội. Trong hệ thống chất lỏng này, không có cầu thủ ngoài sân nào được cố định trong một vai trò xác định trước; bất kỳ ai cũng có thể thi đấu thành công như một tiền vệ, một tiền vệ và một hậu vệ. Cầu thủ duy nhất phải ở trong một vị trí xác định là thủ môn. ==
 
== Thành công về mặt chiến thuật của Total Football phụ thuộc phần lớn vào khả năng thích ứng của từng cầu thủ trong đội, cụ thể là khả năng chuyển đổi vị trí nhanh chóng tùy theo tình huống trên sân. Lý thuyết yêu cầu người chơi phải thoải mái ở nhiều vị trí; do đó, nó đòi hỏi những người chơi thông minh và đa dạng về kỹ thuật. ==
 
== Trong suốt những năm 1970, Ajax đã chơi thứ bóng đá hay nhất từ ​​trước đến nay của họ, đạt được thành tích sân nhà hoàn hảo (46–0–0) trong hai mùa giải trọn vẹn (1971–72 và 1972–73), chỉ một thất bại trong cả mùa giải 1971–72 mùa giải, và kỷ niệm bốn danh hiệu vào năm 1972 (giải vô địch quốc gia Hà Lan, Cúp KNVB, Cúp châu Âu và Cúp liên lục địa). ==
 
== Nội dung ==
 
== 1 Lịch sử ==
 
== 1.1 Sự phát triển ban đầu và nguồn gốc ==
 
== 1.2 Các trường phái Totaalvoetbal của Gloria Ajax và The Clockwork Orange (1960-1970) ==
 
== 1.3 Kỷ nguyên hiện đại ==
 
== 2 Xem thêm ==
 
== 3 Tài liệu tham khảo ==
 
== Môn lịch sử ==
 
== Sự phát triển ban đầu và nguồn gốc ==
 
== Xem thêm: Wunderteam (Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo), La Máquina (Câu lạc bộ Atlético River Plate), và Đội vàng (Mighty Magyars) ==
 
== Jimmy Hogan ==
 
== Đội vàng (Mighty Magyars) năm 1953 ==
 
== Những nền tảng đầu tiên cho Bóng đá tổng lực được đặt bởi nhà tiên phong lục địa Jimmy Hogan, một người gốc Burnley. [1] Làm việc với huấn luyện viên người Áo và người bạn của ông Hugo Meisl vào đầu những năm 1930, đội tuyển quốc gia Áo của Meisl (được gọi là "Wunderteam") có thể trở thành đội đầu tiên chơi Bóng đá tổng lực. [2] Ảnh hưởng của Hogan đã vươn ra ngoài biên giới Áo, khi hai thập kỷ sau, đội tuyển quốc gia Hungary (còn được gọi là "Đội vàng") đã chơi một phong cách bóng đá tương tự dưới thời huấn luyện viên Gusztáv Sebes. [1] [3] Chủ tịch Hiệp hội bóng đá Hungary khi đó, Sandor Barcs, nói: "Jimmy Hogan đã dạy chúng tôi tất cả những gì chúng tôi biết về bóng đá". [1] ==
 
== Một đội khác cũng chơi theo phong cách tương tự như người Áo, là Torino ("Grande Torino" như tên gọi của đội) vào những năm 1940. [4] Từ năm 1941 đến năm 1947, câu lạc bộ Argentina River Plate đã thành lập một đội đáng chú ý, được gọi là "La Máquina" (Cỗ máy), [5] mà mặt trận nổi tiếng được thành lập bởi Carlos Muñoz, José Manuel Moreno, Adolfo Pedernera, Ángel Labruna và Félix Loustau đã hoàn thiện kiểu "chín sai" [6] [7] và sự thay đổi liên tục của các vị trí tấn công. "La Máquina" đã giành được một số danh hiệu Argentina và quốc tế. ==
 
== Cũng trong những năm 1940, huấn luyện viên người Anh Jack Reynolds đã triển khai phong cách Bóng đá tổng lực khi còn ở câu lạc bộ Hà Lan Ajax. [8] Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, Burnley đang chơi một hệ thống mới trong bóng đá Anh "nơi mọi cầu thủ có thể chơi ở mọi vị trí" dưới thời huấn luyện viên Harry Potts. [9] Hệ thống Bóng đá tổng lực này đã đưa câu lạc bộ đến chức vô địch Giải hạng nhất 1959–60 và giành được nhiều lời khen ngợi, bao gồm cả sự ngưỡng mộ từ vua phá lưới giải Hạng nhất Anh mọi thời đại Jimmy Greaves. [10] Một người tiên phong khác là Vic Buckingham, huấn luyện viên của West Bromwich Albion, Ajax và Barcelona trong những năm 1950 và 1960, vì triết lý của ông sau đó được Rinus Michels và Johan Cruyff, một cầu thủ được Buckingham giới thiệu vào đội một của Ajax. [11 ] ==
 
== Trường học Totaalvoetbal của Gloria Ajax và The Clockwork Orange (1960-1970) ==
 
== Xem thêm: Gloria Ajax (AFC Ajax) và The Clockwork Orange (đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan) ==
 
== Johan Cruyff chơi với Ajax năm 1971 ==
 
== Rinus Michels, người từng chơi dưới trướng Reynolds, sau này trở thành huấn luyện viên của Ajax vào năm 1965. Michels đã làm lại lý thuyết, với việc giới thiệu Johan Cruyff tiền đạo, có lẽ là số mũ nổi tiếng nhất của hệ thống. [12] Mặc dù Cruyff được tung vào sân ở vị trí tiền đạo trung tâm, Michels khuyến khích Cruyff tự do di chuyển khắp mặt sân, sử dụng khả năng kỹ thuật và trí thông minh để khai thác điểm yếu của đối phương và tạo cơ hội. Các đồng đội của Cruyff cũng làm việc để tự điều chỉnh cho phù hợp, thường xuyên chuyển đổi vị trí để đảm bảo vai trò chiến thuật trong đội luôn được lấp đầy. [13] Huấn luyện viên người Áo Ernst Happel đã làm lại lý thuyết để giới thiệu sức mạnh, khuyến khích các cầu thủ của mình thi đấu dẻo dai hơn trong thời gian thi đấu tại ADO Den Haag và Feyenoord. Happel cũng dẫn dắt đội tuyển quốc gia Hà Lan về đích ở vị trí á quân trong FIFA World Cup 1978. việc sử dụng không gian, với sự cần thiết phải tạo ra không gian trung tâm một cách nhất quán cho khái niệm Bóng đá tổng lực. Cựu hậu vệ của Ajax, Barry Hulshoff, mô tả đó là "[thứ] chúng tôi đã thảo luận trong suốt thời gian qua. Cruyff luôn nói về việc chạy ở đâu và đứng ở đâu, và khi nào thì không nên di chuyển". [14] Ông giải thích thêm rằng việc chuyển đổi vị trí chỉ có thể thực hiện được do nhận thức về không gian phù hợp. [15] Ông cũng mô tả Bóng đá tổng lực là chủ động, cũng như nhấn mạnh việc sử dụng sức ép, sẽ được sử dụng để giành lại bóng hoặc gây áp lực đáng kể cho đối phương. [16] Michels và Cruyff đã chứng kiến ​​thành công chưa từng có với hệ thống này, giành tám danh hiệu Eredivisie, ba cúp châu Âu và một cúp liên lục địa. [17] Sự trỗi dậy rõ rệt của Bóng đá tổng lực và sức mạnh tấn công của nó cũng có liên quan đến "cái chết của Catenaccio", một hệ thống Ý phụ thuộc nhiều vào phòng ngự được Internazionale thúc đẩy trong những năm 1960. [18] Hệ thống Bóng đá tổng lực rất dễ bị đánh bại, đặc biệt là trong trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1974 giữa Hà Lan và Tây Đức. [19] Michels và Cruyff đã chứng kiến ​​khả năng triển khai lối chơi của họ bị cản trở trong nửa sau của trận đấu nhờ sự xuất sắc của Berti Vogts. Điều này cho phép Franz Beckenbauer, Uli Hoeneß và Wolfgang Overath có được vị trí vững chắc ở hàng tiền vệ, qua đó giúp Tây Đức giành chiến thắng 2-1 ==
 
== Thành phần chính là ==
* [[Tiqui-Taca]]