Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Thang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 21:
| con cái = Thái Đinh <br /> [[Ngoại Bính]] <br /> [[Trọng Nhâm]]
| cha = Quý Chủ
| mẹ = Phù Đô
| sinh =
| mất = [[1761 TCN]]
Dòng 32:
| nghề nghiệp =
}}
'''Thành Thang''' ([[chữ Hán]]:成湯; trị vì: [[1766 TCN]]-[[1761 TCN]]<ref>Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 15</ref> hoặc [[1765 TCN]]-[[1646]]) hay '''Thương Thang''', tổ tiên tên thật'''Tử''' (子), là vị [[Danh sách vua Trung Quốc|vua]] sáng lập [[nhà Thương]], triều đại sau [[nhà Hạ]] và trước [[nhà Chu]], trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông là người đã lật đổ vua [[Hạ Kiệt|Kiệt]] tàn bạo, người cai trị cuối cùng của của nhà Hạ.
 
== Tên gọi và nguồn gốc ==
Tên thật của Thương Thang là Lữ (履), còn trong thơ ca hậu duệ người Thương truyền lại, Thành Thang còn được gọi là '''Vũ Thang''', '''Thiên Ất''', '''Vũ Vương'''; trong các bản khắc xương cổ xưa thường gọi ông là '''Đại Ất''', '''Đường''' hay '''Cao Tổ Ất'''.
 
Bộ tộc người Thương sinh sống ở lưu vực hạ lưu sông [[Hoàng Hà]]. Dòng họ Thương Thang đã nhiều đời làm thủ lĩnh bộ tộc. Tổ tiên 8 đời của ông là Tiết có công giúp [[vua Vũ nhà Hạ]] trị thuỷ. Một trong những tổ tiên khác của ông được xác định là Ất Lý (乙履), người kết hôn với Giản Địch (简狄), con gái của Cao Tân Thị (高辛氏). Ất Lý có một người con là Nghiêu Ti Đồ (尧司徒) được bổ nhiệm làm chư hầu của vua nhà Hạ cho những đóng góp của ông cho người dân. Mười ba thế hệ sau, cha của Thương được sinh ra, được đặt tên là Quý Chủ (主癸). Mẹ của Thương Thang là Phù Đô.
 
== Củng cố thực lực ==
Khi Thương Thang lên làm thủ lĩnh, bộ tộc Thương có [[kinh tế]] phát triển khá mạnh và là một trong các vương quốc dưới quyền bá chủ của nhà Hạ, trong 17 năm. Trong khi đó, triều đình nhà Hạ dưới quyền của vua Kiệt tàn bạo ngày càng mất lòng người. Nhiều bộ tộc nổi dậy chống lại. Thấy nước Thương của Thành Thang giàu mạnh, Kiệt sợ Thương chống lại nên lệnh triệu Thương Thang đến kinh đô rồi bắt và giam cầm ông ở Hạ Đài<ref>Huyện Vũ, [[Hà Nam, Trung Quốc]]</ref>.
 
Sau một thời gian, [[Hạ Kiệt]] tha cho Thương Thang, thả để ông về bộ tộc. Thương Thang quyết tâm phát triển lực lượng để lật đổ sự cai trị của Hạ Kiệt.
 
Ông giành được sự ủng hộ từ hơn 40 vương quốc nhỏ hơn <ref name="gongtong30">王恆偉. (2005) (2006) 中國歷史講堂 #1 遠古至春秋. 中華書局. ISBN 962-8885-24-3. p 30.</ref>. Thương Thang công nhận rằng Kiệt ngược đãi người dân của mình và sử dụng điều này để thuyết phục những người khác. Trong 1 bài phát biểu, Thương Thang nói rằng tạo ra sự hỗn loạn không phải là điều ông muốn, nhưng với sự tàn bạo của Kiệt, ông phải tuân theo [[thiên mệnh]] và sử dụng cơ hội này để lật đổ Kiệt <ref name="gongtong30" />. Là một lợi thế, ông chỉ ra rằng thậm chí các tướng của Kiệt cũng không chấp hành mệnh lệnh của ông ta <ref name="gongtong30" />.
 
Vào năm thứ 15 đời vua Kiệt, Thang đời đô từ đất Lý (履) sang đất Bạc (亳) <ref name="ba">Bamboo annals Xia chapter on Xia Jie under the name Gui (癸).</ref><ref name="vi1">Virginia.edu. "[http://www2.iath.virginia.edu/saxon/servlet/SaxonServlet?source=xwomen/texts/bamboo.xml&style=xwomen/xsl/dynaxml.xsl&chunk.id=d2.4&toc.id=d2.4&doc.lang=chinese Virginia.edu contents of Bamboo annal]." ''Xia chapter.'' Retrieved on 2010-10-03.</ref><ref>Phía bắc huyện Thương Khâu, [[Hà Nam, Trung Quốc]]</ref>. Tính từ đời tổ tiên ông là Tiết đến đời ông đã di chuyển đô 8 lần trong 8 đời. Việc thiên đô sang đất Bạc có tác dụng lớn giúp đời sống xã hội trong bộ tộc được ổn định, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Trình độ làm nghề [[nông nghiệp|nông]] của bộ tộc Thương khá cao, ông còn cho người sang giúp bộ tộc Cát cày cấy<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 6</ref>.
Dòng 52:
Sau đó, Thang còn thu dụng một người ở bộ lạc khác đến là Trọng Huỷ, cho làm tả tướng. Ông giao cho Y Doãn và Trọng Huỷ giúp mình xử lý công việc trong bộ lạc. Việc trọng dụng những người ngoài bộ lạc trong chính quyền của ông đã phá vỡ thông lệ nhiều đời chỉ bó hẹp quyền hành trong tay những người nội tộc.
 
Trong một thời gian, Y Doãn đã bỏ Thương sang làm quan cho Hạ Kiệt, nhưng sau đó thấy Kiệt hoang dâm tàn bạo, khinh rẻ chư hầu nên Y Doãn trở lại với Thành Thang. Thành Thang vẫn một lòng kính trọng và trọng dụng Y Doãn<ref>Chu Mục, Trần Thâm, sách đã dẫn, tr 44</ref>. Có ý kiến trong giới sử học Trung Quốc căn cứ vào [[Trúc thư kỉ niên]], một cuốn biên niên sử cổ của [[nước Ngụy]] thời [[Chiến Quốc]] được phát hiện đời [[Tây Tấn]] cho rằng: Y Doãn thực chất được Thành Thang cử sang làm gián điệp bên [[nhà Hạ]] hai năm sau khi đời đô, lợi dụng sự bất mãn của nàng [[Muội Hỷ]] khi nàng không còn được Hạ Kiệt sủng ái để lấy tin tức về tình hình Hạ Kiệt. Sau khi nắm được nội tình nhà Hạ, Y Doãn trở về với Thành Thang sau 3 năm <ref>Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 51</ref><ref name="ba" /><ref name="vi1" />.
 
== Liên minh chống Hạ ==
Dòng 61:
Sau khi có được sự ủng hộ của nhiều bộ tộc khác, Thang bắt đầu thực hiện việc thanh trừ các bộ tộc còn thân với nhà Hạ. Khi đó bộ tộc Cát ở gần Bạc đô vẫn liên minh với nhà Hạ, thủ lĩnh là Cát Bá là người tàn bạo, không giữ lễ nghĩa. Sau vài lần dùng lễ qua lại để cho thiên hạ biết sự nhẫn nại của mình đối với Cát Bá nhưng Cát Bá không sửa đổi, Thương Thang ra quân diệt Cát Bá.
 
Sau khi diệt Cát Bá, ông còn ra quân thực hiện 10 cuộc chinh phạt khác với các bộ lạc là vây cánh của Hạ Kiệt như Bình Chướng Vi<ref>Huyện Hoạt, phía đông Hà Nam, Trung Quốc</ref>, Côn Ngô<ref>Phía đông huyện Hoạt, Hà Nam, Trung Quốc</ref>, Mật Tu (密須), [[Hoạt (huyện)|Hoạt]] (韋), [[Phạm (huyện)|Phạm]] (顧). Trong khi đó Hạ Kiệt vẫn say mê tửu sắc, không quan tâm tới chính sự. Cũng trong thời gian này, nhà sử họ Chung Cổ (终古) của Kiệt bỏ Hạ sang Thương <ref name="ba" /><ref name="vi1" /><ref name="tonsiother" />,
 
== Tiêu diệt nhà Hạ ==
Dòng 72:
''Không phải ta bạo gan phát động cuộc chiến tranh này, mà vì Hạ Kiệt đã phạm nhiều tội ác, trời cao lệnh cho ra đánh hắn''.|||Thương Thang
}}
Năm 1767 TCN, Thương Thang quyết chiến với Hạ Kiệt tại [[Trận Minh Điều|Minh Điều]] (鳴條)<ref>Miền đông Phong Khâu, Hà Nam, Trung Quốc</ref> dướitrong trờimột mưacơn bão sét, kết quả là quân Hạ đại bại <ref name="ba" /><ref name="vi1" />. Kiệt trốn thoát và chạy đến thuộc quốc trung thành cuối cùng của Hạ là Tam Tông (三朡) <ref>Đông bắc Định Đào, Sơn Đông</ref><ref name="ba" /><ref name="vi1" />. Quân của Thang do tướng Mậu Tử (戊子) chỉ huy truy đuổi Kiệt đến nước [[Thành, Lũng Nam|Thành]] (郕) và bắc giữ ông ta ở Tiêu Môn (焦門) và lật đổ, khiến nhà Hạ chấm dứt từ đó. Sau đó Hạ Kiệt bị đày ra Nam Sào (南巢) <ref>Miền đông nam huyện Thọ, An Huy hiện nay</ref><ref name="ba" /><ref name="vi1" /><ref name="tonsiother" /> và cuối cùng chết vì bệnh <ref name="gongtong30" />.
 
==Trị vì==
Sau khi nghe Y Doãn báo cáo tình hình các chư hầu đã quy phục, Thương Thang trở về đất Thái Quyển, sai Trọng Huỷ làm bản cáo mệnh bố cáo việc diệt Hạ và khuyên nhân dân chú trọng việc cày cấy. Ông chính thức lên ngôi vua, lập ra nhà Thương. Thành Thang ổn định lại xã hội sau thời kỳ chiến tranh, tiến hành giảm thuế và các nghĩa vụ quân sự của binh lính. Ảnh hưởng của ông lan rộng đến sông [[Hoàng Hà]], và nhiều bộ lạc xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn các tộc [[người Đê]] (Thị) (氐), người Khương (羌) ở xa cũng đến tiến cống và xưng thần<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 13</ref>. Ông cũng chọn [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]] là thủ đô mới của Trung Quốc.
 
Thành Thang cho xây dựng một cung điện gọi là Hạ Khuê (夏社) để ghi nhớ nhà Hạ.
 
Trong năm đầu tiên của triều đại của ông, có những đợt hạn hán. Thang đã ra lệnh đúc các đồng tiền vàng và phân phối cho các gia đình nghèo bị buộc phải bán con của họ vì hạn hán. Ông dự định để họ sử dụng tiền này để mua con của họ lại.
 
Trong năm thứ 9 của triều đại của ông, ông chuyển [[Cửu đỉnh (Trung Quốc)|Cửu đỉnh]] làm ra bởi [[Hạ Vũ]] đến cung điện của nhà Thương.
 
== Qua đời ==
Thành Thang làm vua không lâu. Năm 1761 TCN, ông [[chết|qua đời]], không rõ bao nhiêu tuổi. Ông làm trưởng tộc Thương từ năm 1783 TCN, chính thức làm vua thay nhà Hạ từ năm 1766 TCN, ở ngôi được 6 năm<ref>Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 16</ref>. Dự án [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] của các sử gia hiện đại Trung Quốc xác định thời gian bắt đầu triều đại của ông từ năm 1600 TCN, tức là muộn hơn khoảng 160 năm. Triều đại nhà Thương do ông sáng lập tồn tại được 644 năm, lâu thứ hai trong [[lịch sử Trung Quốc]] (sau [[nhà Chu]]).
 
Do con trưởng Thành Thang là Thái Đinh (大丁) mất sớm nên con thứ của ông là [[Ngoại Bính]] (外丙) lên nối ngôi.
 
== Xem thêm ==