Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Orbital nguyên tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tính năng gợi ý liên kết: 7 liên kết được thêm.
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Orbital nguyên tử''' ([[tiếng Anh]]: ''atomic orbital'', viết tắt '''AO''') hay '''obitan nguyên tử''', '''đám mây nguyên tử''', '''quỹ vực nguyên tử''' là một hàm toán học mô tả lại trạng thái như [[Bức xạ điện từ|sóng điện từ]] của [[electron|một electron]].<ref>Milton Orchin,Roger S. Macomber, Allan Pinhas, và R. Marshall Wilson (2005)"[http://media.wiley.com/product_data/excerpt/81/04716802/0471680281.pdf Thuyết orbital Nguyên tử]"</ref> Hàm này được dùng để tính toán xác suất tìm thấy electron của một nguyên tử ở bất kì chỗ nào bao quanh không gian hạt nhân của nguyên tử. Những hàm này có thể cung cấp một [[biểu đồ]] (đồ thị) ba chiều của các vị trí có khả năng có một electron. Giới hạn có thể xác định được theo vùng của vật chất từ hàm mà có khả năng tìm được electron.<ref>{{chú thích sách|author=Daintith, J. |title=Từ điển Hóa Học Oxford|location=New York | publisher=Nhà Xuất Bản Đại Học Oxford|year=2004|isbn=0-19-860918-3}}</ref> Một cách cụ thể hơn, những orbital nguyên tử có những [[trạng thái lượng tử]] của một cá nhân electron trong một tập hợp electron bao quanh một đơn nguyên tử, như được mô tả từ hàm quỹ đạo (orbital function).
 
Mặc dù điều này giống với các [[hành tinh]] quay xung quanh [[Mặt Trời|Mặt trời]], các electron không thể mô tả như những hạt rắn và vì thế mới có tên gọi là orbital nguyên tử. Từ trước, con người nghĩ quỹ đạo nguyên tử tương tự như [[quỹ đạo]] [[elíp|hình elip]] của các [[hành tinh]]. Một cách nói chính xác hơn là một đám bụi lớn và thường có [[khí quyển]] với hình thù kì quặc (là tập hợp các hạt electron), phân bố xung quanh một hành tinh tương đối nhỏ (là [[hạt nhân nguyên tử]]). Nếu chính xác thì các orbital nguyên tử được mô tả như hình dạng của bầu khí quyển chỉ khi một [[electron độc thân]] (single ectron) có mặt trong một nguyên tử. Khi có nhiều electron được thêm vào một nguyên tử độc thân, sự bổ sung thêm các electron đó tạo nên sự đồng đều để lấp đầy vùng không gian xung quanh hạt nhân (đôi khi còn gọi là "đám mây electron" của nguyên tử<ref>Những bài giảng vật lý của Feynman - Xuất Bản Lần Cuối, Tập 1 bài 6 trang 11. Feynman, Richard; Leighton; Sands. (2006) [[Pearson PLC|Addison Wesley]] ISBN 0-8053-9046-4</ref>) dẫn đến một khối hình cầu trong đó xác suất tìm thấy electron càng ngày càng lớn.
Dòng 10:
| title=Tìm hiểu Cấu tạo của Nguyên tử và Phân tử
| journal=Tạp chí Triết Học | year=1913
| volume=26 | issue=1 | pages=476}}</ref> và một [[nhà vật lý]] người Nhật Bản [[Hantaro Nagaoka]] đưa ra giả thuyết sự chuyển động của electron từ khá sớm vào năm 1904.<ref>{{chú thích tạp chí
| first=Hantaro | last=Nagaoka
| title=Kinetics of a System of Particles illustrating the Line and the Band Spectrum and the Phenomena of Radioactivity
Dòng 49:
 
==Định nghĩa chính của cơ học lượng tử==
Trong [[cơ học lượng tử]], trạng thái của một nguyên tử, tức là những trạng thái riêng của nguyên tử [[Hamilton]], được mở rộng vào trong [[tổ hợp tuyến tinh]] của các sản phẩm theo nguyên tắc phản đối xứng của những hàm electron riêng biệt. Các thành phần có trong không gian của những hàm electron riêng biệt được gọi là '''orbital nguyên tử'''. (Khi xét qua thành phần spin (quay), một cách nói khác của '''orbital nguyên tử spin''').
 
Trong [[vật lý nguyên tử]], các [[vòng quang phổ nguyên tử]] tương ứng với trình chuyển đổi ([[bước nhảy lượng tử]]) giữa các trạng thái lượng tử của một nguyên tử. Các trạng thái này được ký hiệu bởi tập hợp [[số lượng tử]] được tóm tắt trong biểu tượng thuật ngữ và thường liên quan đến cấu hình đặc biệt của electron.
 
== Số lượng tử ==