Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Giới”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Phù Vũ An vương '''Ngô Giới''' ([[chữ Hán]]: 吴玠, 1093 – 1139) là tướng lãnh [[nhà Nam Tống]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông cùng em trai [[Ngô Lân]] là danh tướng kháng [[nhà Kim|Kim]] bảo vệ đất Thục, giành được những thắng lợi vang dội ở các chiến dịch Hòa Thượng nguyên và Tiên Nhân quan. Ông là một trong 7 vị vương khác [[họ Triệu]] của nhà Nam Tống (中兴异姓七王, Trung hưng dị tính thất vương, còn lại theo thứ tự phong vương là Kỳ vương [[Hàn Thế Trung]], Tuần vương [[Trương Tuấn (nhà Tống, sinh 1086)|Trương Tuấn]], Hòa vương [[Dương Tồn Trung]], Tín vương [[Ngô Lân]], Phu vương [[Lưu Quang Thế]], Ngạc vương [[Nhạc Phi]]).
 
==Thiếu niên tòng quân==
Dòng 23:
 
==Tiếp tục vệ Thục và chiến thắng Tiên Nhân quan==
Năm thứ 2 (1132), Giới được kiêm Tuyên phủ xứ trí sứ tư Đô thống chế, tiết chế Hưng {{ref|7}}, Văn {{ref|8}}, Long {{ref|9}} 3 châu. Người Kim dòm ngó đất Thục lâu ngày, nhưng bị Giới đóng quân ở Hòa Thượng nguyên chẹn giữ, không thể đánh bại ông, bèn tìm cách vòng qua. Khi ấy Giới ở Hà Trì {{ref|10}}, Tát Li Hát sai phản tướng Tống là Lý Ngạn Kỳ đóng quân ở Tần Châu, dòm ngó Tiên Nhân quan nhằm ngăn trở Giới, còn lệnh cho kị binh ra Hi Hà lộ nhằm ngăn trở [[Quan Sư Cổ]], đích thân ông ta từ Thương Châu {{ref|11}}, Vu Châu {{ref|12}} đâm thẳng Thượng Tân {{ref|13}}. Tháng giêng ÂL năm thứ 3 (1133), Tát Li Hát chiếm Kim Châu {{ref|14}}. Tháng 2 ÂL, quân Kim nhắm đến lưu vực các sông Dương, Hán, tướng Tống giữ Hưng Nguyên {{ref|15}} là Lưu Tử Vũ gấp lệnh cho [[Điền Thịnh]] giữ Nhiêu Phong quan, và cho chạy trạm dịch mời Giới cứu viện. Giới từ Hà Trì đi 300 dặm/ngày đêm, gởi cam vàng cho địch, nói: “Đại quân từ xa đến, hãy dùng để giải khát.” Tát Li Hát cả sợ, nện gậy xuống đất mà nói: “Mày đến sao nhanh vậy!” Đôi bên giao chiến ở Nhiêu Phong lĩnh. Lính Kim khoác giáp nặng trèo lên núi, 1 người lên trước được 2 người đẩy sau, người trước chết rồi thì người sau thay thế. Lính Tống dùng cung nỏ bắn loạn, đẩy đá lớn lăn xuống. Cứ như vậy đến 6 ngày đêm, người chết chất cao như núi mà quân Kim không lui. Giới trả ngàn nén bạc/người để chiêu mộ cảm tử sĩ, tìm được 5000 người, sắp sửa giáp công. Có viên tiểu hiệu mắc tội, trốn sang quân Kim, dẫn đường tắt cho người Kim vượt Thiền Khê lĩnh, ra đằng sau Nhiêu Phong quan, từ trên cao đánh xuống. Quân Tống không chống nổi nên tan vỡ; Giới về giữ huyện Tây. Quân Kim tiến vào Hưng Nguyên, Lưu Tử Vũ lui về giữ Tam Tuyền, đắp lũy ở núi Đàm Độc để cố thủ, Giới cũng chạy về Tam Tuyền hội họp với ông ta. Ít lâu sau quân Kim phải lui, Giới gấp điều binh đón ở Vũ Hưu quan, đánh úp hậu quân của địch, giết được hàng ngàn người, khiến họ bỏ lại tất cả quân nhu. Ban đầu người Kim đặt mưu, cho rằng Giới ở mặt tây, nên vượt hiểm trở tiến vào mặt đông, không ngờ ông đến kịp. Tuy quân Kim chiếm được 3 trọng trấn, nhưng không thể giữ được. Triều đình cho Giới tiến làm Kiểm hiệu thiếu bảo, sung quan Lợi Châu, Lộ, Giai, Thành, Phượng Châu chế trí sứ. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Nhị niên, mệnh Giới kiêm Tuyên phủ xứ trí sứ tư Đô thống chế, tiết chế Hưng, Văn, Long tam châu. Kim cửu khuy Thục, dĩ Giới trú binh Hòa Thượng nguyên ách kì xung, bất đắc sính, tương xuất kì thủ chi. Thì Giới tại Hà Trì, Kim nhân dụng bạn tướng Lý Ngạn Kỳ trú Tần Châu, nghễ Tiên Nhân quan dĩ chuế Giới, phục lệnh du kị xuất Hi Hà dĩ chuế Quan Sư Cổ, Tát Li Hát tự Thương, Vu trực đảo Thượng Tân. Tam niên chánh nguyệt, thủ Kim Châu. Nhị nguyệt, trường khu xu Dương, Hán, Hưng Nguyên thủ thần Lưu Tử Vũ cấp mệnh Điền Thịnh thủ Nhiêu Phong quan, dĩ dịch thư chiêu Giới nhập viện. Giới tự Hà Trì nhật dạ trì tam bách lí, dĩ hoàng cam di địch viết: “Đại quân viễn lai, liêu dụng chỉ khát.” Tát Li Hát đại kinh, dĩ trượng kích địa viết: “Nhĩ lai hà tốc da!” Toại đại chiến Nhiêu Phong lĩnh. Kim nhân bị trọng khải, đăng sơn ngưỡng công. Nhất nhân tiên đăng tắc nhị nhân ủng hậu; tiên giả kí tử, hậu giả đại công. Giới quân cung nỗ loạn phát, đại thạch tồi áp, như thị giả lục trú dạ, tử giả sơn tích nhi địch bất thối. Mộ cảm tử sĩ, nhân thiên ngân, đắc sĩ ngũ thiên, tương giáp công. Hội Giới tiểu hiệu hữu đắc tội bôn Kim giả, đạo dĩ Tổ Khê gian lộ, xuất quan bối, thừa cao dĩ hám Nhiêu Phong. Chư quân bất chi, toại hội, Giới thối bảo Tây huyện. Địch nhập Hưng Nguyên, Lưu Tử Vũ thối bảo Tam Tuyền, trúc Đàm Độc sơn dĩ tự cố, Giới tẩu Tam Tuyền hội chi. Vị ki, Kim nhân bắc quy, Giới cấp khiển binh yêu vu Vũ Hưu quan, yểm kích kì hậu quân, đọa giản tử giả dĩ thiên kế, tận khí truy trọng khứ. Kim nhân thủy mưu, bổn vị Giới tại tây biên, cố đạo hiểm đông lai, bất ngu Giới trì chí. Tuy nhập tam quận, nhi thất bất thường đắc. Tiến Giới Kiểm hiệu thiếu bảo, sung Lợi Châu, Lộ, Giai, Thành, Phượng Châu chế trí sứ.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 111, Tống kỷ 111, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng nhị niên (Kim Thiên Hội thập niên)''': Thập nhị nguyệt,... Sơ, Đô nguyên soái Tông Hàn tại Vân Trung, sử Thiểm Tây kinh lược sứ Hoàn Nhan Cảo bầu ngũ lộ binh, dữ Lưu Dự chi Chiêu phủ sứ Lưu Quỳ lai xâm. Thì Tần Phượng lộ phó tổng quản Ngô Lân dĩ binh trú Hòa Thượng nguyên, địch cụ bất đắc tiến, dục dĩ kì thủ Thục, nãi lệnh bạn tướng Lý Ngạn Kỳ trú Tần Châu, khuy Tiên Nhân quan dĩ yếu Ngô Giới, biệt tướng dĩ du kị xuất Hi Hà chuế Quan Sư Cổ, nhi đại quân do Thương, Vu dĩ tiến. Sư Cổ dữ biệt tướng ngộ, bại chi. Hoàn Nhan Cảo chí Thương Châu, xích hậu tương vọng phong thối tẩu. Thủ tướng thiệu Hàng độ bất năng thủ, tức thối đồn Thượng Tân. '''Quyển 112, Tống kỷ 112, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng tam niên (Kim Thiên Hội thập nhất niên)''': Xuân, chánh nguyệt,... Tiên thị Tuyên phủ xử trí sứ Trương Tuấn triệu Bổn tư đô thống chế, tiết chế Hưng, Văn, Long châu Ngô Giới, Kim, Quân, Phòng châu trấn phủ sứ kiêm Bổn tư đồng đô thống chế [[Vương Ngạn]], Lợi Châu lộ kinh lược sứ kiêm Tri Hưng Nguyên phủ Lưu Tử Vũ, hội vu Hưng Nguyên, ước Kim nhân nhược dĩ đại binh thủ Thục, tức tam soái tướng vi ứng viện. Tử Vũ văn địch chí, dụ Ngạn, tỉ dĩ cường nỗ cư hiểm yêu chi; Ngạn tập dụng đoản binh, lũ bình tiểu đạo, bất dĩ Tử Vũ ngôn giới ý. Kim Châu chi tây hữu Khương Tử quan, nãi thừa bình thì thương lữ do Tử Ngọ cốc nhập Kim, Dương chi lộ. Kim thanh ngôn thủ Khương Tử quan lộ nhập Hán Âm huyện, cố Ngạn pha phân binh thủ chi, kí nhi Hoàn Nhan Cảo tự Thượng Tân tật trì, bất nhất nhật chí Tuân Dương cảnh thượng, triệu Hán Âm thống chế quan Quách Tiến, dĩ tam thiên nhân thừa lưu dạ phát, ngộ vu Sa Ôi. Kim nhân xá kị lai công, chiến thập hợp, Kim nhân kiến tiến quân thiểu, bô thì, bộ tốt tịnh tiến, trần ai tế nhật, tiến lực chiến, bại tử. Ngạn viết: “Địch sở dĩ tật trì giả, dục nhân ngô lương thực dĩ nhập Thục nhĩ.” Tức tận phần trữ tích, thối bảo Thạch Tuyền huyện. Kim nhân nhập Kim Châu, Ngạn thối xu Tây Hương. Hội Tuấn khiển cán bạn quan Chân Dao trì thủ thư đốc Ngạn thanh dã trung hội, toại du Tây Hương... Nhị nguyệt,... Thiểm Tây đô thống chế Ngô Giới, dữ Kim binh ngộ vu Chân Phù huyện chi Nhiêu Phong quan... Tiên thị Tri Hưng Nguyên phủ Lưu Tử Vũ, văn Kim Châu phá, tức khiển thống chế quan Điền Thịnh thủ Nhiêu Phong quan, cự Kim nhân lai lộ, thả trì hịch triệu Giới. Thì nghi phủ tư vị hữu hành hạ, Giới viết: “Sự bách hĩ, chư tướng bất năng bạn, ngã đương tự hành.” Trực bí các, chủ quản ki nghi văn tự Trần Viễn Du thỉnh viết: “Địch cử quốc nhi lai, kì phong bất khả đương. tuyên phủ kí mệnh phân thủ, các hữu thủ địa, hà khổ viễn phó! Vạn nhất bất thắng, hối chi vô cập.” Giới bất thính, tự Hà Trì nhất nhật dạ trì tam bách lí. Trung đạo thiểu chỉ, Tử Vũ di thư viết: “Địch đán tịch chí Nhiêu Phong lĩnh hạ, bất thủ thử, thị thiên Thục dã. Công bất tiền, tử vũ đương vãng.” Giới tức phục trì, dữ Kim nhân ngộ. Giới quân tài sổ thiên nhân, ích dĩ Dương Châu nghĩa sĩ vạn tam thiên nhân. Giới tiên dĩ hoàng cam di Hoàn Nhan Cảo viết: “Đại quân viễn lai, liêu phụng chỉ khát. Kim nhật quyết chiến, các trung sở sự.” Hoàn Nhan Cảo đại kinh, dĩ trượng kích địa viết: “Ngô Giới, nhĩ lai hà tốc da!” Thì Kim Phòng trấn phủ sứ Vương Ngạn tự Tây Hương dĩ Bát tự quân lai hội. Chư quân kiến viện chí, sảo thỉ, Giới nộ, dục trảm hiệu trại tướng; tướng tẩu hàng Kim nhân, cáo dĩ hư thật, thả ngôn: “Thống chế quan Quách Trọng Tuân địa phân tuy hiểm, binh quả nhược dịch bại.” Nãi túng sở lược phụ nhân hoàn sơn trại, nhi tự Thiền Khê lĩnh nhiễu xuất quan bối, dạ dĩ khinh binh tập thủ chi, Trọng Tuân quả thối tẩu. Kim sơn kí đắc sơn trại, toại thừa cao hạ hám Nhiêu Phong, nhi dĩ tinh binh giáp công nam sư chi bối, nam sư tận khước, Giới trảm chi bất năng chỉ. Phàm lục nhật, quan phá. Ngô Giới thu dư binh xu Tây huyện. Vương Ngạn thu dư binh bôn Đạt Châu, Tứ Xuyên đại chấn. ... Kim Giám quân Hoàn Nhan Cảo nhập Hưng Nguyên phủ, Kinh lược tư Lưu Tử Vũ phần kì thành nhi độn. Sơ, Nhiêu Phong quan phá, Tử Vũ dữ Ngô Giới mưu thủ Định Quân sơn. Giới đạn Tử Vũ, toại Tây; Tử Vũ diệc thối đồn Tam Tuyền huyện, tòng binh bất cập tam bách, dữ sĩ tốt đồng thô lệ, chí thủ thảo mộc nha nghiệt thực chi, di Giới thư viết: “Tử Vũ thệ tử vu thử, dữ công quyết hĩ.” thì Giới tại Hưng Châu chi Tiên Nhân quan vi thủ bị, đắc thư nhi khấp. Kì ái tướng Dương Chánh đại hô quân môn viết: “Tiết sứ bất khả phụ Lưu đãi chế, bất nhiên, Chánh bối diệc xá tiết sử khứ.” Giới nãi tòng huy hạ do gian đạo dữ Tử Vũ hội vu Tam Tuyền. Kim du kị thậm bách, Giới dạ thị Tử Vũ, phương hàm tẩm, bàng vô cảnh a giả, viết: “Thử hà thì, nhi giản dịch nãi nhĩ!” Tử Vũ khái nhiên viết: “Ngô tử mệnh hĩ, phu hà ngôn!” Giới khấp hạ, phục vãng thủ Tiên Nhân quan. Tử Vũ ước Giới cộng đồn Tam Tuyền, Giới viết: “Quan ngoại, Thục chi môn hộ, bất khả khinh khí. Kim nhân sở dĩ bất cảm khinh nhập giả, khủng Giới nghị kì hậu nhĩ. Nhược tương dữ cư hạ, địch tất tùy nhập hiểm, tắc ngô thế nhật túc, đại sự khứ hĩ. Kim kinh lược kí hạ, Giới đương do Hưng Châu, Hà Trì nhiễu xuất địch hậu Bao Tà sơn cốc, như hành thử huyệt. Địch kiến Giới luyện xuất kì hậu, vị tương dụng kì thiết phục, yêu kì quy lộ, thế tất lang cố. Ngô nhiên hậu cư hiểm yêu kích, khả sử độn tẩu, thử sở vị thiện bại giả bất vong dã.” Tử Vũ dĩ Đàm Độc sơn hình đấu bạt, kì thượng khoan bình hữu thủy, nãi trúc bích lũy, phàm thập lục nhật nhi thành, kì chúng sảo tập. Kí nhi thống chế quan Vương Tuấn hựu dĩ ngũ thiên nhân chí, vu thị quân thế phục chấn... '''Quyển 113, Tống kỷ 113, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng tam niên (Kim Thiên Hội thập nhất niên)''': ...Đông, thập nguyệt,... Canh dần, Ngô Giới gia Kiểm hiệu thiếu bảo, dĩ tổng binh luy niên, hãn ngữ hữu công dã.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Thiệu Hưng nhị niên, kiêm Tuyên phủ sứ tư đô thống chế tiết độ Hưng, Văn, Long châu. Tặc cửu khuy Thục, tất dục dĩ kỳ thủ chi hoàng đệ Tát Lí Hãn dữ tứ thái tử, trừng tiền nhật chi bại bất cảm khuy Hòa Thượng nguyên. Thiệu Hưng tam niên xuân, bầu kì binh tam thập vạn hựu tận phát chư lộ Thiểm quân, thanh ngôn đông quy Thái Nguyên, phản tự Thương, Vu xuất Hán ẩm đảo Lương, Dương. Kim Châu thất thủ, hầu cức soái huy hạ kị binh bội đạo tật trì, trú dạ sổ bách lí, cấp điều binh lợi lãng kính xu Kim, Dương, tiên dĩ hoàng cam sổ bách mai khao tặc soái, viết “Đại quân viễn lai, liêu phụng chỉ khát. Kim nhật quyết chiến, các trung sở sự.” Tát Lí Hãn dĩ trượng kích địa đại kinh viết “Ngô hầu nhĩ lai hà tốc da.” Bất cảm cự tiến, bàn hoàn luy nhật. Hầu đắc dĩ kì hạ trì Nhiêu Phong lĩnh trại, sách phương cư yếu hiểm, nhi địch dĩ huy trung quân cấp thượng, toại đại chiến Nhiêu Phong lĩnh thượng phàm lục trú dạ, địch giai bại nục. Tát Lí Hãn đại nộ, trảm kì thiên hộ bối lặc thập sổ nhân, dĩ tử phạm quan, hựu tiềm quân gian đạo du Thiền Khê lĩnh xuất quan quân hậu đoạn hầu quy lộ. Hầu án binh thừa dạ kính xu Tây huyện, hoặc viết “Thục nguy hĩ”, hầu viết “Địch tảo địa nhi lai khứ quốc viễn đấu nhi tử thương đại bán. Ngô dĩ toàn quân ách kì hàng, Thục khả vô ưu.” Hầu toại vi thanh dã chi mưu, phân đồn chư tướng, kì dĩ đảo hư chi thế, địch tiện toàn Trung Lương sơn, tiếp nguyệt nhất tịch tiềm độn. Tát Lí Hãn quy, nãi phục hầu thiện dụng binh, thế bất năng phá, tắc mật khiển thông thư, bách đoan gian dụ, ngôn “Kim quốc uy đức chi thịnh, trí dũng chi kỳ, giáp binh chi cường, công nghi tương thì nhi động.” Hầu phục thư vân “Giới cẩn bạch Kim quốc đô thống túc hạ, đấu mông kì thư, cụ thẩm nhã hoài sĩ các hữu chủ, bất dung giam. Hắc, bỉ dĩ chi tình bất thông, không tự sai nhị vô phục bình định thì dã, triếp sư tả khổn, phức dụng đáp nhã huống. Duy túc hạ lượng chi phu, trung ngoại dị vực quân thần dị phân thử. Thiên hạ đại nghĩa cổ kim thường lí, thuận chi tắc trì, nghịch chi tắc loạn, phi quan truyện kí sổ thiên. Bách niên dĩ lai, phàm thiết danh hiệu dữ. Phu bạn thần tặc tử xưng binh phạm thượng, soái bất toàn chủng, di diệt vô di, loại giả dĩ kì bội đại nghĩa phản thường lí, thần nhân phẫn tật, thiên địa bất dung dã. Ngã Thái Tổ hoàng đế đĩnh sanh Ngũ Quý, tao thì hôn loạn, kiên thủ thần tiết, ủy chất Sài thị trượng thuận, thảo nghịch công tắc vũ trụ. Chúc Thế Tông khí đại lịch sổ, hữu quy bách vạn chi chúng hoàn hô ủng đái bất đắc dĩ, nhi quân chi bất sát nhất sĩ, bất đọa nhất thành. Thử dữ Nghiêu Thuấn hà dị tai. Thâm nhân hậu đức, bố hoạch hàm dưỡng, hành tam bách niên. Dân chí lão tử bất thức can qua, thượng hạ nữu tập vũ bị, bất tu sĩ khí, bất bị đạo tặc, thừa chi quận huyền ngõa giải. Chí kim ngũ lục niên nhi vị định thử cái. Thái bình nhật cửu trì, doanh thủ thành thất kì đạo dã, nhi vị Kim quốc uy đức chi thịnh, giáp binh chi cường, năng chí thị hồ thả Kim quốc hành sư chiến thắng đắc chí diệc hữu do dã. Hãm thành phá ấp, túng sĩ phiếu lược, tứ kì sở thủ tốt đồ tham đắc, cổ dũng tranh phấn thắng tắc thắng hĩ, nhi sát thương tàn tặc, biến động hòa khí, diệc dĩ thậm hĩ. Dĩ thử dụng sĩ lợi tận tắc sĩ bất khả sử, dĩ thử quyết chiến tài đàn tắc chiến bất khả tất. Túc hạ thị kim chi thiên hạ hà như, tao phần thiêu giả thập bất tồn nhất nhị, canh nông thất nghiệp, thương cổ lưu vong, ngạ tử giả tương chẩm tạ, sở vị tài lợi hà hữu tai thiết ưu. Túc hạ chi sĩ tự thị bất khả dĩ sử, túc hạ chi chiến tự thị bất khả dĩ tất, túc hạ diệc khả dĩ thiểu hưu tai nãi phục tụ, thanh từ chi nhưỡng dịch phù đấu sao chi tử, tỉ bán ủng hư khí bỉ Lưu Dự giả thường bắc diện bổn triều bị vị đài sát, phụ thượng hoàng bạt trạc chi ân, lâm nan úy nọa bất năng dĩ tử báo quốc nhi thừa tiện để gian nghiêu hãnh phi vọng, tam xích đồng tử giai tri bỉ khí nhi thóa mạ chi. Kì thượng hà nhan diện dĩ thị thính vu thiên địa chi gian, vọng thiên hạ quy chi da. Nhiên Kim quốc kí tiễn ngã tông xã, hựu thiêu Dự tặc, dĩ thần phản quân, cố thiên hạ đại nghĩa cổ kim thường lí Kim quốc tận tảo trừ chi hĩ, nhi dục dĩ tĩnh loạn bất tri thích, sở dĩ triệu loạn dã. Chúa thượng thông minh hiếu hữu từ nhân cung kiệm văn vu thiên hạ, thủy phụng sử Kim quốc bất năng lưu kỵ kinh sư biến cố, thích tòng binh phiên khổn âu ca du, chúc tự vị ứng thiên thật Thái Tổ hưng vương chi địa thiên ý, chiêu chiêu khả kiến hĩ. Duy Dương chi dịch, đại binh yểm chí, thương hoàng vô bị, trung ngoại thất sắc, nhiên đại giá nam hạ, hoành xung phong đào, ki sổ thiên lí, như hành nhẫm tịch tư dịch chi tốt vô nhất bất bị, nhi Kim quốc chi sĩ lưu li trầm nịch giả quá bán. Thử túc dĩ kiến thiên chi bất khí Triệu thị, tốt dục an toàn chi dã. Kim càn tượng thanh minh, tinh vĩ thuận hành, long đông giới hàn, nhật tinh ôn yến, dương thịnh ẩm bác. Thử Trung quốc chi phúc, dân tâm nhật dĩ cố, sĩ khí nhật dĩ chấn, thái bình khả chỉ nhật. Nhi sĩ dĩ Kim quốc chi chúng, tự xưng đa tài, khởi vô thâm minh thiên đạo, nhi bất tri thẩm trạch thủ xá, an định thiên hạ thượng vi tiền chi phân phân quả, hà vi da. Vãng giả Khiết Đan dữ Trung quốc ước vi huynh đệ, tuynh mâu tương yếu thiên nhật thị thệ, giới sử vãng lai lạc dịch vu đạo, lưỡng triều xích tử thật tiện an chi, nhi ngã nội tà nhân chi mưu hốt khí tái thư trụy thất đại tín, cố thượng thiên bạc phạt hàng thử tai, lệ nhiên hạch kì họa đoan. Cùng kì loạn nguyên, cổ tác giao đấu, Kim quốc dữ hữu lực yên. Kim văn Khiết Đan cừu oán Kim quốc thâm nhập cốt tủy, Bột Hải Hề tập tòng nhi hòa chi tương hội triệu hào anh, củ tập tộc loại, tá viện trung triều, nam bắc thông hoan, phục Tuần cựu minh, tịnh lực hợp thế dĩ sính hám vu Kim quốc. Kim quốc chi binh bạo lộ chiến đấu, yêm duyệt tuế thì, lực bì khí suy, phúc bối thụ địch, túc hạ năng bảo tất thắng hồ? Ám ki hội vẫn uy danh, huy thành công, mạn hậu hoạn, tư thiên hạ vạn thế khẩu thiệt chi sĩ để bạc san tiếu Kim quốc độc hà thủ dã. Giới thế vi Tống thần, thực Triệu thị chi lộc, dựng tử dục tôn vu Trung Nguyên chi địa, thảng hữu nhị tâm, thiên địa quỷ thần thật tru chi, nãi nhục di thuyết sử, tương thì nhi động túc hạ, độ Giới khởi cứ đắc vong sỉ kiến lợi vong nghĩa giả da. Nhất ngôn chi thất, tứ mã mạc cập, thiết vi túc hạ tích chi. Xuân luật phương sơ, vạn vựng hy thái, địch khứ phần mộ, ki du vạn lí chi viễn. Quân trung không tổng pha phục nhạc, phủ canh kí gia cẩn, miên thực dưỡng dĩ tân xuân hòa bình chi phúc.” Giới bạch Tát Lí Hãn đắc thư đại bất bình, nhật dữ chư tướng thục nghị công Giới. Triều đình gia hầu Kiểm hiệu thiếu bảo, sung Lợi Châu, Giai, Thành, Phượng chế trí sứ.}}
 
Tháng 2 ÂL năm thứ 4 (1134), đại quân Kim xâm phạm, đánh Tiên Nhân quan. Trước đó, Giới ở Hòa Thượng nguyên, cho rằng lương thực không đủ, nơi này cách xa đất Thục, bèn lệnh cho Ngô Lân bỏ đi, sửa sang Sát Kim bình nằm bên phải Tiên Nhân quan, dựng một cái lũy, dời binh về giữ nơi đấy. Đến nay, tướng Kim là Ngột Truật, Tát Li Hát cùng tướng ngụy Tề là [[Lưu Quỳ]] soái 10 vạn kỵ binh tiến vào, đục núi mở đường, men xuống Lĩnh Đông. Giới đem vạn người chặn đường cái; Lân soái khinh binh đi đường tắt mà đến, cùng quân Kim vừa đi vừa đánh 7 ngày đêm, mới hội họp được với anh trai. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Tứ niên nhị nguyệt, địch phục đại nhập, công Tiên Nhân quan. Tiên thị, Giới tại Hòa Thượng nguyên, hướng quỹ bất kế; Giới hựu vị kì địa khứ Thục viễn, mệnh Lân khí chi, kinh doanh Tiên Nhân quan hữu Sát Kim bình, sang trúc nhất lũy, di nguyên binh thủ chi. Chí thị, Ngột Truật, Tát Li Hát cập Lưu Quỳ soái thập vạn kị nhập xâm, tự Thiết Sơn tạc nhai khai đạo, tuần Lĩnh Đông hạ. Giới dĩ vạn nhân đương kì xung. Lân soái khinh binh do Thất Phương quan bội đạo nhi chí, dữ Kim binh chuyển chiến thất trú dạ, thủy đắc dữ Giới hợp.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Thiệu Hưng tứ niên xuân nhị nguyệt, tặc phục đại nhập. Tát Lí Hãn, Tứ thái tử súc phẫn nhật cửu, củ hợp binh sổ thập vạn, chuyển Tam Hà chi Túc Ngư quán nghĩ phụ, quyết ý thủ Thục, tự nguyên soái dĩ hạ giai tận thất dĩ lai, hựu dĩ Lưu Dự phúc tâm vi chiêu phủ sứ, triệu chư lộ thiêm quân liệt đồn Bảo Kê, miên tuyên sổ bách lí, tiến công Thiết Sơn, tạc nhai khai đạo, vu Tiên Nhân quan cao lĩnh thượng lập đại sách, hạ khám hầu doanh, tuần Lĩnh Đông hạ, trực công hầu quân. Hầu tự dĩ vạn nhân đương kì tiền, hầu đệ tổng quản Ngô Lân do Thất Phương quan bất đãi hội hợp, soái khinh binh bội đạo nhập viện kì huynh.”}}
 
Tháng 3 ÂL, quân Kim tấn công doanh Tống, bị Giới đánh đuổi. Quân Kim lại lấy thang mây đánh tường lũy, bị tướng Tống là [[Dương Chánh]] lấy sào đẩy phá nát thang mây, lấy mâu dài đâm lính Kim. Quân Kim 2 mặt giáp công: Ngột Truật ở đông, [[Hàn Thường]] ở tây; Ngô Lân vung đao vạch đất, nói với chư tướng: “Có chết thì chết ở đây, ai lui thì chém!” Lân soái binh tinh nhuệ đứng ở giữa, xoay cả hai mặt, tùy tình hình mà phát động. Hồi lâu, quân của Lân dần suy yếu, bèn gấp gáp lùi lại lớp ải thứ hai. Quân Kim đổi lính mới, người nào cũng khoác giáp nặng, dùng móc sắt nối với nhau, cùng trèo lên như xâu cá. Lân sai Trú đội thỉ thay phiên bắn xuống, tên trút như mưa, xác chết chất chồng, quân Kim giẫm đạp mà trèo lên. Tát Li Hát dừng xe ngựa để trông hồi lâu, rồi nói: “Tôi nắm được rồi.” Hôm sau, Tát Li Hát lệnh cho quân Kim đánh lầu ở góc tây bắc. Tướng Tống là [[Diêu Trọng]] trèo lên lầu hăng say chiến đấu; lầu nghiêng, Trọng lấy lụa làm dây thừng, kéo lại cho ngay. Quân Kim dùng lửa đốt lầu, Trọng lấy hũ rượu dập tắt. Giới gấp sai Điền Thịnh đem đao dài búa lớn ra xông pha, đốt đuốc sáng bốn tòa núi, nổi trống rung cả mặt đất. Hôm sau, đại quân Tống tràn ra, thống lĩnh [[Vương Hỷ]], [[Vương Vũ (Nam Tống)|Vương Vũ]] soái binh tinh nhuệ, chia làm cờ tím – cờ trắng xông vào doanh trại địch, khiến trận thế của quân Kim rối loạn. Quân Tống hăng hái tấn công, bắn trúng mắt trái của Hàn Thường, quân Kim bắt đầu rút lui. Giới sai Thống chế quan [[Trương Ngạn]] cướp trại Hoành Sơn; [[Vương Tuấn (Nam Tống)|Vương Tuấn]] mai phục ở Hà Trì chẹn đường về của địch, lại đánh bại quân Kim. Ngoài ra, Giới cho rằng Quách Chấn chiến đấu bất lực, bắt chém ông ta. Chiến dịch Tiên Nhân quan, quân Kim từ nguyên soái trở xuống đều đem theo vợ con, Lưu Quỳ cũng cho rằng có thể chiếm được Thục. Đến nay, Quỳ nhắm không thể đánh nổi Giới, bèn lui về giữ Phượng Tường, giao ruộng cho binh sĩ, tính kế lâu dài. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Địch thủ công Giới doanh, Giới kích tẩu chi. Hựu dĩ vân thê công lũy bích, Dương Chánh dĩ chàng can toái kì thê, dĩ trường mâu thứ chi. Lân bạt đao họa địa, vị chư tướng viết: “Tử tắc tử thử, thối giả trảm!” Kim phân quân vi nhị, Ngột Truật trận vu đông, Hàn Thường trận vu tây. Lân soái duệ tốt giới kì gian, tả oanh hữu nhiễu, tùy ki nhi phát. Chiến cửu, Lân quân thiểu bại, cấp đồn đệ nhị ải. Kim sanh binh chủng chí, nhân bị trọng khải, thiết câu tương liên, ngư quán nhi thượng. Lân dĩ Trú đội thỉ điệt xạ, thỉ hạ như vũ, tử giả tằng tích, địch tiễn nhi đăng. Tát Li Hát trú mã tứ thị viết: “Ngô đắc chi hĩ.” Dực nhật, mệnh công tây bắc lâu, Diêu Trọng đăng lâu hàm chiến, lâu khuynh, dĩ bạch vi thằng, vãn chi phục chánh. Kim nhân dụng hỏa công lâu, dĩ tửu phữu phác diệt chi. Giới cấp khiển thống lĩnh Điền Thịnh dĩ trường đao đại phủ tả hữu kích, minh cự tứ sơn, chấn cổ động địa. Minh nhật, đại xuất binh. Thống lĩnh Vương Hỷ, Vương Vũ soái duệ sĩ, phân tử, bạch kì nhập Kim doanh, Kim trận loạn. Phấn kích, xạ Hàn Thường, trúng tả mục, Kim nhân thủy tiêu độn. Giới khiển Thống chế quan Trương Ngạn kiếp Hoành Sơn trại, Vương Tuấn phục Hà Trì ách quy lộ, hựu bại chi. Dĩ Quách Chấn chiến bất lực, trảm chi. Thị dịch dã, Kim tự nguyên soái dĩ hạ, giai huề nô lai. Lưu Quỳ nãi Dự chi phúc tâm, bổn vị Thục khả đồ, kí bất đắc sính, độ Giới chung bất khả phạm, tắc hoàn cư Phượng Tường, thụ giáp sĩ điền, vi cửu lưu kế, tự thị bất vọng động.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 113, Tống kỷ 113, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng tứ niên (Kim Thiên Hội thập nhị niên)''': Tam nguyệt, tân hợi sóc, Xuyên Thiểm tuyên phủ tư đô thống chế Ngô Giới bại Kim nhân vu Tiên Nhân quan.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Tứ thái tử văn chi, dữ hoàng đệ Lang Quân phân lĩnh vạn hộ tù trưởng ủng binh cấp công, hựu vãng công Sát Kim bình dã, sài đối lũy tráp liên châu ngạnh trại sổ thập tọa, hựu lai hầu doanh tiền, lập pháo sổ thập tọa, kích ngã doanh. Hầu lệnh doanh trung tinh phát thần tí cung, phi đại pháo tễ địch vô số. Thống chế quan Điền Thịnh tổng binh thâm nhập truy địch, địch hựu phát sanh binh vạn dư kích doanh tả, hầu phân binh lực chiến khước chi. Địch bất trụ hựu thiêm sanh binh ủng đỗng tử vân thê, trực tiền đáp thành thân. Hầu binh hướng tiền dụng pháo đả đỗng tử, toái dụng chàng can, chàng vân thê đảo. Địch nộ phược hư bằng chiến lâu, biệt khiển Đại bối lặc ủng duệ tốt vạn dư, nhất phát thừa thành. Hầu lệnh Thống chế quan Dương Chánh lĩnh trường thương, mạch đao thủ thâm nhập, thứ đả cách đoạn. Địch hựu khiển Nhị bối lặc tổng chánh giáp kim nhân nhị vạn, giáp công sách lưỡng lặc. Ngô Lân tả hữu già hộ huyết chiến, sát địch giai dẫn khứ. Tát Lí Hãn trú mã tứ cố lương cửu, vân “ngô đắc chi hĩ”, dực nhật hiệu lệnh chư quân tinh lực chích công hầu doanh. Đoài phương nhất lâu tử, tự dần chí ngọ nguy thậm, Diêu Trọng – mã thống lĩnh chích tại lâu thượng hàm đấu, lâu dĩ khuynh trắc, Trọng dĩ quyên vi thằng, duệ sử phục chánh. Địch dĩ hỏa phần lâu trụ, Trọng dĩ tửu hồ kích diệt hỏa. Địch bố thần tí cung Đông lĩnh hạ, hầu diệc phát thần tí cung ngũ bách chích dữ chi đối xạ. Địch khứ, tức khiển Vương Vạn Niên, Lưu Kiềm Hạt tuấn thủy, Vương Vũ, Tuyên Tán phân tử, bạch kì nhập địch. Địch bôn hội. Để dạ, hầu biệt khiển ngũ tướng phân canh kiếp trại, trú dạ sổ thập hợp. Kim nhân khốn bại, tử thương dĩ vạn kế, tức liễm binh tiêu độn. Sát tử thiên hộ, vạn hộ giáp quân vạn dư, đắc bàng bài, cổn thương, kim cổ, kì xí sổ thiên kiện. Tả quân thống chế Trương Ngạn dạ kiếp địch Hoành Xuyên trại, trảm thủ thiên cấp, sanh cầm tướng lĩnh nhị thập nhân. Hầu hựu khiển Thống chế quan Vương Tuấn thiết phục Hà Trì, ách tặc quy lộ, sanh cầm bách dư nhân, trảm thủ thiên cấp, đắc mã, kì xí vô số. Hầu tất binh vĩ tập, trực quá Hòa Thượng nguyên khứ. Thượng văn chi gia thán, tứ dĩ thân trát vân “Sử vị Triệu Sung Quốc trầm dũng hữu đại lược, kì dụng binh dĩ toàn sư bảo thắng, vi liễn nãi Hán Trung Hưng lương tướng dã. Trẫm thường tư kì nhân dĩ tể đại nghiệp, cập kiến tuyên phủ tư tấu Kim nhân ủng đại binh nhi lai, hữu thôn phệ Tứ Xuyên chi tâm, khanh năng bảo quan khắc địch, tỏa bỉ hổ lang chi duệ nhi tráng trẫm hưng phục chi uy, phi mưu dĩ tể dũng, năng nhược thị da trẫm chi sở tư. Kim nãi kiến chi đãn hận trở viễn, bất đắc phủ khanh bối nhi úy trẫm tâm dã, canh tại bất kiêu kì chí ích lệ quân tình, tắc sở vị tể trẫm mạc đại chi nghiệp, giả phi khanh nhi thùy. Dĩ hàng thân bút trừ khanh Tuyên phủ sứ cập kế, dĩ trẫm sở ngự chiến bào khí giáp đẳng vật, tứ khanh tưởng dĩ tất đạt. Kim triều đình kiến nghị thưởng điển, tiên phi thử sổ tự liêu tả trẫm hoài.” Kim nhân cửu bất đắc chí, tắc hoàn cư Phượng Tường, thụ giáp đồn điền vi cửu lưu kế, tự thị bất cảm khinh động.}}
 
Nghe tin thắng trận, triều đình thụ Giới làm Định quốc tiết độ sứ, Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ. Tướng Tống là Quan Sư Cổ nhận lệnh của Giới thâm nhập đất địch, đại bại, sợ tội nên hàng Kim, toàn bộ tướng sĩ bộ hạ của ông ta không ai đi theo mà cùng nhau quay về. Giới yêu lòng trung nghĩa ấy, đem gia sản chu cấp cho họ, thu nạp vào đội ngũ của mình. Tháng 4 ÂL, Giới giành lại 3 châu Phượng, Tần, Lũng. Tháng 7 ÂL, triều đình xét công ở Tiên Nhân quan, bái Giới làm Kiểm hiệu thiếu sư, Phụng Ninh, Bảo Định quân tiết độ sứ, Lân từ Phòng ngự sứ được thăng làm Định Quốc quân Thừa tuyên sứ, Dương Chánh trở xuống được thăng trật có phân biệt. Năm thứ 6 (1136), Giới được kiêm quan Doanh điền đại sứ, dời làm Bảo Bình, Tĩnh Nan tiết độ sứ. Năm thứ 7 (1137), Giới sai tì tướng Mã Hi Trọng đánh Hi Châu; Hi Trọng thua chạy, còn để mất Củng Châu, Giới bèn chém ông ta làm răn. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Tiệp văn, thụ Giới Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ. Tứ nguyệt, phục Phượng, Tần, Lũng tam châu. Thất nguyệt, lục Tiên Nhân quan công, bái Kiểm hiệu thiếu sư, Phụng Ninh, Bảo Định quân tiết độ sứ, Lân tự Phòng ngự sứ thăng Định Quốc quân Thừa tuyên sứ, Dương Chánh dĩ hạ thiên trật hữu soa. Lục niên, kiêm Doanh điền đại sứ, dịch Bảo Bình, Tĩnh Nan tiết. Thất niên, khiển tì tướng Mã Hi Trọng công Hi Châu, bại tích, hựu thất Củng Châu, Giới trảm chi.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 113, Tống kỷ 113, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng tứ niên (Kim Thiên Hội thập nhị niên)''': Hạ, tứ nguyệt, canh thần sóc, chế thụ Ngô Giới Định Quốc quân tiết độ sứ, Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ. Giới nhân trừ tuyên phó, toại di trấn, gia ân, đế tứ dĩ sở ngự chiến bào, khí giáp, thả tứ thân bút viết: “Trẫm hận trở viễn, bất đắc phụ khanh chi bối dã!”... Bính tuất, Ngô Giới dữ Kim nhân chiến, bại chi, toại phục Phượng, Tần, Lũng châu... '''Quyển 116, Tống kỷ 116, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng lục niên (Kim Thiên Hội thập tứ niên)''': Tam nguyệt,... Kiểm hiệu thiếu sư, Phụng Ninh, Bảo Tĩnh quân tiết độ sứ, Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ Ngô Giới dịch trấn Bảo Bình, Tĩnh Nan, Hưng Châu trí tư. '''Quyển 119, Tống kỷ 119, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng thất niên (Kim Thiên Hội thập ngũ niên)''': Thị đông, Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ Ngô Giới khiển tì tướng Mã Hi Trọng công Hi Châu. Hi Trọng tố vọng dong, đắc hịch tức khí tác, bất đắc dĩ tiến doanh Hi Châu thành ngoại sổ thập lí. Hi Châu phụ lão văn quan quân lai, hữu dục suất chúng quy phụ giả, Kim tướng tuyên ngôn viết: “Bắc quân kim nhật đại chí, đương cộng kiếp doanh.” Hi Trọng văn chi, hôn thì bạt trại độn khứ. Hi Trọng hoàn, Giới trảm chi dĩ tuẫn.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Hầu dĩ Hi Hà kinh lược tư Quan Sư Cổ tự Thao, Mẫn lĩnh Tuyển phong thống chế Lý Tiến, Tiền quân thống chế Vương Sư Cổ, Hậu quân thống chế Đái Việt đả Lương Hà châu, tập Đại Đàm huyện, yểm Cốt Cốc trấn. Địch mộ vị bạt trại khứ, Sư Cổ do Sát Mã cốc công Tiêu Sơn vụ, phần Điền Gia thôn, Viên Tử cốc, thâm nhập địch cảnh, chí Thạch Yếu lĩnh hốt ngộ Kim địch đại binh, nhất chiến bại tích. Sư Cổ toàn sư Đại Đàm, nội hoài tàm cụ, tất hoàn binh tuyên tư, chích thân vãng hàng Kim. Hầu ái thử quân trung nghĩa, vô nhất nhân nhất kị tòng Sư Cổ bạn giả, phủ tồn lao lai, quyên kì gia tài hậu tư cấp chi. Lưỡng quân kí hợp trung ngoại, nhất tâm thất nhất thất. Phu vu Sư Cổ, đắc vạn tỳ hưu vu hành trận, hầu do thử binh tinh thậm. Tứ nguyệt, tỉ trấn Định Quốc, trừ Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ. Thu, thất nguyệt, triều đình lục Tiên Nhân quan công, tiến Kiểm hiệu thiếu sư, Phụng Ninh, Bảo Tĩnh quân tiết độ sứ. Ngũ niên, xuân, hầu hướng Thiên Thủy xuất kỳ binh hạ Tần Châu. Lục niên, kiêm Doanh điền đại sứ, tỉ trấn Bảo Bình, Tĩnh Nan quân.}}
Dòng 34:
Giới cùng quân Kim đối lũy chừng 10 năm, nắm rõ hình thế chiến trường, cũng hiểu rõ năng lực quân đội. Năm thứ 7 (1137), nhà Kim phế bỏ chính quyền ngụy Tề, đánh tiếng muốn lấy đất Thục. Giới không tin, quả nhiên người Kim không có hành động gì. Giới luôn lo lắng việc tiếp vận gây vất vả cho dân, nhiều lần bãi bỏ quan viên tham nhũng, hạn chế những chi phí phù phiếm, tăng cường sửa sang đồn điền, hằng năm thu hoạch đến 10 vạn hộc lúa. Giới còn điều động lính thú, lệnh cho tướng lãnh dưới quyền sửa sang đê điều, khiến dân thấy việc tưới tiêu có thể nhờ cậy, đồng ý quay về an cư chừng vài vạn gia đình. Tháng 9 ÂL, triều đình nghe tin doanh điền dưới quyền Giới thu hoạch 20 vạn cân lương thực, hạ chiếu khen ngợi. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Giới dữ địch đối lũy thả thập niên, thường khổ viễn hướng lao dân, lũ thái nhũng viên, tiết phù phí, ích trì đồn điền, tuế thu chí thập vạn hộc. Hựu điều thú binh, mệnh Lương, Dương thủ tướng trì bao thành phế yển, dân tri quán khái khả thị, nguyện quy nghiệp giả sổ vạn gia.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 119, Tống kỷ 119, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng thất niên (Kim Thiên Hội thập ngũ niên)''': Cửu nguyệt,... Đinh hợi,... Trung thư ngôn: “Xuyên Thiểm tuyên phủ sứ Ngô Giới, vu Lương, Dương khuyến dụ quân dân doanh điền, kim hạ nhị mạch tịnh ước thu thành sở thu, cận nhị thập vạn thạch, khả tỉnh quỹ hướng.” Chiếu tưởng chi.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Hầu dữ Kim binh đối lũy giao chiến du thập niên, thục kì quân lũy khúc chiết, tri kì bộ lĩnh kiên thúy, thường dĩ nhất đương bách, duy hoạn viễn hướng lao dân, lũ thái nhũng viên quan, tiết phù phí. Tuế đồn điền chí thập vạn hộc, hựu điều thú binh, mệnh Lương, Dương thủ tướng trì bao thành, phế yển, quảng khái dân điền, phục nghiệp sổ vạn. Triều đình gia chi, tỉ thư bao thưởng. Thất niên, đông, địch phế Lưu Dự, triệu chư đạo binh thanh ngôn nhập Thục. Hầu độc vị bất nhiên, liễn kì tương khứ dĩ nhi. Quả nhiên hòa nghị thành,...}}
 
Năm thứ 9 (1139), Tống – Kim ký kết [[hòa ước Thiệu Hưng]], triều đình phong thưởng cho chư tướng, Giới được thụ làm Đặc tiến, Khai phủ nghi đồng tam tư, thăng Tứ Xuyên tuyên phủ sứ, các châu Giai, Thành thuộc Thiểm Tây đều nghe tiết chế của ông. Triều đình sai nội thị đem chiếu thư viết tay của hoàng đế cho Giới, đến nơi thì Giới phát bệnh nặng, phải nhờ dìu đỡ mới có thể nhận chiếu thư. [[Tống Cao Tông]] nghe tin thì lo lắng, sai Tứ Xuyên chế trí sứ [[Hồ Thế Tương]] đòi thầy thuốc giỏi ở Thành Đô đến chữa trị, đưa gấp Thái y đi thăm bệnh. Tháng 6 ÂL, Giới bệnh mất ở trong quân, hưởng thọ 47 tuổi. Cao Tông nghỉ chầu 2 ngày, tặng Thiếu sư, ban 30 vạn tiền. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Cửu niên, Kim nhân thỉnh hòa. Đế dĩ Giới công cao, thụ Đặc tiến, Khai phủ nghi đồng tam tư, thiên Tứ Xuyên tuyên phủ sứ, Thiểm Tây Giai, Thành đẳng châu giai thính tiết chế. Khiển nội thị phụng thân tráp dĩ tứ, chí, tắc Giới bệnh dĩ thậm, phù dịch thính mệnh. Đế văn nhi ưu chi, mệnh thủ thần tựu Thục cầu thiện y, thả sức quốc công trì thị, vị chí, Giới tốt vu Tiên Nhân quan, niên tứ thập thất. Tặng Thiếu sư, tứ tiền tam thập vạn.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 121, Tống kỷ 121, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng cửu niên (Kim Thiên Quyến nhị niên)''': Xuân, chánh nguyệt,... Nhâm thìn, Thái úy, Vũ Thắng, Định Quốc quân tiết độ sứ, Hồ Bắc, Kinh Tây tuyên phủ sứ Nhạc Phi, Bảo Bình, Tĩnh Nan quân tiết độ sứ, Xuyên Thiểm tuyên phủ phó sứ Ngô Giới, tịnh Khai phủ nghi đồng tam tư... '''Quyển 122, Tống kỷ 122, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng cửu niên (Kim Thiên Quyến nhị niên)''': Lục nguyệt,... Bảo Bình, Tĩnh Nan quân tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam tư, Tứ Xuyên tuyên phủ sứ Ngô Giới hoăng vu Tiên Nhân quan, niên tứ thập thất. Chiếu xuyết triều nhị nhật, tặng thiếu sư, phụ bạch thiên thất.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Quả nhiên hòa nghị thành, thượng dĩ hầu công cao, tứ Thân trát tiến Khai phủ nghi đồng tam tư, Tứ Xuyên tuyên phủ sứ. Nhi hầu dĩ bệnh, tự dĩ thưởng quá công, cố từ. Ưu chiếu bất hứa. Cửu niên, xuân, tam nguyệt, hầu dĩ tật cách, khất giải sự. Thiên tử trắc nhiên, ưu chi, mệnh Thành Đô thủ Hồ Thế Tương phóng Thục thiện y giả, trì kì tật, hựu trì quốc y vãng thị. Vị chí nhi hầu dĩ lục nguyệt dĩ dĩ hoăng vu quân, hưởng niên tứ thập thất. Dĩ hợi di biểu văn, thượng chấn điệu xuyết thị triều, đặc tặng Thiếu sư.}}
 
==Đánh giá==
Giới ưa đọc sách, mỗi khi xem sử truyện, thấy có lời hay thì chép lại cạnh chỗ ngồi; lâu ngày, tường vách đều có cách ngôn. Giới dùng binh theo lối của [[Tôn Vũ|Tôn]], [[Ngô Khởi|Ngô]], tính kế sâu xa, không ham món lợi nhỏ, nên có thể bảo đảm ắt thắng. Giới quản lý bộ hạ nghiêm khắc nhưng có ơn, ân cần thăm hỏi, thân là đại tướng nhưng nắm rõ tình hình kẻ dưới, kể cả binh tốt, nên tướng sĩ vui vẻ vì ông mà chết. Giới tuyển chọn tướng tá, đều xem công lao và năng lực chứ không xét chức vụ hay thâm niên, cũng không để cho thân nhân, quyền quý quấy nhiễu. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Giới thiện độc sử, phàm vãng sự khả sư giả, lục trí tọa hữu, tích cửu, tường dũ giai cách ngôn dã. Dụng binh bổn Tôn, Ngô, vụ viễn lược, bất cầu tiểu cận lợi, cố năng bảo tất thắng. Ngự hạ nghiêm nhi hữu ân, hư tâm tuân thụ, tuy thân vi đại tướng, tốt ngũ chí hạ giả đắc dĩ tình đạt, cố sĩ nhạc vi chi tử. Tuyển dụng tướng tá, thị lao năng vi cao hạ tiên hậu, bất dĩ thân cố, quyền quý nạo chi.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 122, Tống kỷ 122, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng cửu niên (Kim Thiên Quyến nhị niên)''': Giới ngự hạ nghiêm nhi hữu ân, cố sĩ nhạc vi chi tử.}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''Công tích ký''': Hầu năng phủ sĩ tốt, đồng kì cam khổ. Chí quân chánh tắc trảm, ngải bất nhất thải, cố nhân nhân hiệu tử. Như Kiến Viêm nhị niên, Khúc Đoan đồn Ma Vụ trấn đốc chiến, hầu khiển liệt hiệu tam bách thất thập dư nhân vu Đại Cốc Bỉ Giác lĩnh nghênh chiến, thỉ thạch vị giao, vọng phong bôn hội, phục nặc sơn cốc. Tứ niên, hầu chiêu binh Tần Phượng, tiền tam bách thất thập dư nhân xuất phó chiêu an, hầu vấn tấn tái tam sảo tác phi thị giả ngũ lục nhân, xích khiển chi, dư tam bách thất thập nhân tất trảm vu viễn đình hạ khứ Tần Châu thập lí. Sĩ tốt cổ lật, tự thị xuất chiến nhân giai hiệu tử, chí đệ công thưởng tắc đoạn dĩ công luận, vô thỉnh thác chi tư. Tính nhạc thiện, mỗi quan sử truyện, hữu khả sư giả tất thư chi tọa, hữu nhật tụng thất thư. Kì dụng binh bổn Tôn Ngô nhi năng cùng kì biến hóa. Tuy công cao quý hiển nhi cư thường cực kiệm ước, chí thôi dĩ dư sĩ tắc lược vô thiểu lận kì một dã. Gia vô dư ti, chí vô trạch dĩ cư.}}
 
Giới mất, Hồ Thế Tương hỏi Giới làm thế nào giành thắng lợi, Ngô Lân đáp: “Lân theo anh trai chiến đấu với Tây Hạ, mỗi khi vào trận, chẳng qua một chốc tiến lùi, thắng bại liền phân. Còn người Kim, thì thêm lần tiến lại lần lui, nhẫn nại kiên trì, quân lệnh tàn khốc hễ lùi ắt chết, mỗi lần vào trần hàng ngày khgông xong, thắng không đuổi bừa, thua không rối bời. Đây là điều ta dùng binh trước nay chưa từng gặp, cùng họ đối đầu lâu ngày, mới nắm được tình huống. Đó là cung tên của người Kim, không sắc bén bằng của Trung Quốc, binh sĩ của Trung Quốc, không kiên nhẫn bằng của Kim. Ta luôn dựa vào sở trường bắn thủng giáp nặng ngoài mấy trăm bước, thì họ không thể đánh vỗ mặt được; vì thế phải chọn địa hình tiện lợi, dùng lính tinh nhuệ thay phiên quấy nhiễu, cùng họ xung đột không ngừng, nhằm khiến họ không thể nghỉ ngơi, để phá hoại tính kiên nhẫn của họ. Còn như lâm cơ quyết đoán khi vào trận, thì Lân không thể nói được.” {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Giới tử, Hồ Thế Tương vấn Giới sở dĩ chế thắng giả, Lân viết: “Lân tòng tiên huynh hữu sự Tây Hạ, mỗi chiến, bất quá nhất tiến khước chi khoảnh, thắng phụ triếp phân. Chí Kim nhân, tắc canh tiến điệt thối, nhẫn nại kiên cửu, lệnh khốc nhi hạ tất tử, mỗi chiến phi luy nhật bất quyết, thắng bất cự truy, bại bất chí loạn. Cái tự tích dụng binh sở vị thường kiến, dữ chi giác trục tư cửu, nãi đắc kì tình. Cái Kim nhân cung thỉ, bất nhược Trung Quốc chi kính lợi; Trung Quốc sĩ tốt, bất cập Kim nhân chi kiên nại. Ngô thường dĩ trường kĩ đỗng trọng giáp vu sổ bách bộ ngoại, tắc kì xung đột cố bất năng tương cập. vu thị tuyển cư hình tiện, xuất duệ tốt canh điệt nạo chi, dữ chi vi vô cùng, sử bất đắc hưu hạ, dĩ tự kì kiên nhẫn chi thế. Chí quyết ki vu lưỡng trận chi gian, tắc Lân hữu bất năng ngôn giả.”}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 122, Tống kỷ 122, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng cửu niên (Kim Thiên Quyến nhị niên)''': Kì hậu chế trí sứ Hồ Thế Tương vấn Giới sở dĩ thắng vu kì đệ hữu hộ quân đô thống chế Lân, viết: “Địch lệnh khốc nhi hạ tất tử, mỗi chiến phi luy nhật bất quyết, nhiên kì cung thỉ bất nhược Trung Quốc chi kính lợi. Ngô thường dĩ trường kĩ đỗng trọng giáp vu sổ bách bộ ngoại, hựu cư kì hành sử, tranh xuất duệ tốt, dữ chi vi vô cùng, dĩ trở kì kiên nhẫn chi thế. Chí vu quyết ki lưỡng trần chi gian, tắc Lân hữu bất năng ngôn.”}}
 
Cuối đời Giới ham mê sắc dục, khiến người tìm phụ nữ ở Thành Đô, thích ăn đan thạch, nên mắc bệnh khạc ra máu mà chết. Sử cũ nhận xét: Vào lúc quân Tống thua [[trận Phú Bình]], Tần Phượng lộ thất thủ. Người Kim bắt đầu dòm ngó đất Thục, tình thế đông nam nguy cấp, nhờ Giới đứng ra đảm đương tuyến đầu, nếu không thì chẳng còn đất Thục từ lâu, nên người ở Tứ Xuyên đến nay vẫn nhớ ông. {{refn|group=Tống sử|'''Ngô Giới truyện''': Vãn tiết pha đa thị dục, sử nhân ngư sắc vu Thành Đô, hỉ nhị đan thạch, cố đắc lạc huyết tật dĩ tử. Phương Phú Bình chi bại, Tần Phượng giai hãm, Kim nhân nhất ý nghễ Thục, đông nam chi thế diệc cức, vi Giới thân đương kì xung, vô Thục cửu hĩ. Cố tây nhân chí kim tư chi.}} {{refn|group=Tục thông giám|'''Tục tư trị thông giám quyển 122, Tống kỷ 122, Cao Tông Thụ Mệnh Trung Hưng Toàn Công Chí Đức Thánh Thần Vũ Văn Chiêu Nhân Hiến Hiếu hoàng đế Thiệu Hưng cửu niên (Kim Thiên Quyến nhị niên)''': Nhiên Giới vãn tiết thị sắc, đa súc tử nữ, nhị kim thạch, dĩ cố đắc lạc huyết tật tử. Hậu thụy Vũ An.}}
 
==Hậu sự==