Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giáo hoàng Giuliô II”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 20:
 
== Trước khi thành giáo hoàng ==
Giáo hoàng Julius II tên thật là Giuliano della Rovere, sinh ngày 5 tháng 12 năm 1443 tại Pavone[[Albisola Superiore|Albisola]] trong một gia đình quý tộc nghèo là [[Nhà Della Rovere]], là con của Raphael della Rovere và Theodora Manerola và là cháu của [[Giáo hoàng Xíttô IV|Giáo hoàng Sixtus IV]].<ref>{{chú thích sách|last1=Shaw|first1=Christine|title=Julius II: The Warrior Pope|date=1997|publisher=Wiley}}</ref><ref>Phiên bản Belford-Clarke của [[Encyclopædia Britannica, 9th edition|''Encyclopædia Britannica'' (1890)]] ghi rằng, "He does not appear to have joined the order of St. Francis, but to have remained one of the secular clergy until his elevation in 1471 to be bishop of Carpentras in France, shortly after his uncle succeeded to the papal chair."</ref>
 
Năm 1471, Giuliano được vinh thăng làm Hồng y của [[vương cung thánh đường]] [[San Pietro in Vincoli]].<ref>{{chú thích sách|last1=Eubel|first1=Konrad|title=Hierarchia catholica medii aevi|date=1914|publisher=Libreria Regensbergiana|location=Münster}}</ref> Ông đã giữ chức giám mục (hoặc tổng giám mục) của nhiều giáo phận (tổng giáo phận) trong giai đoạn 1471-1503. Trong giai đoạn đó, ông làm Giám mục của Lausanne cho đến năm 1476, rồi làm Giám mục của Coutances là giáo phận mà ông từ bỏ vì cháu ông là Galéas della Rovere năm 1477. Ông là một người đối nghịch không đội trời chung với [[Giáo hoàng Alexanđê VI|Giáo hoàng Alexander VI]]. Trong suốt triều Giáo hoàng của Alexander, ông không hề đặt chân đến Rome.