Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Việt – Chiêm (1069)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Xoá ký tự ẩn... |
|||
Dòng 31:
Năm 1068 vua [[Lý Thánh Tông]] sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành [[Kandapurpura|Phật Thệ]] tới [[Đại Việt]] bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua [[nhà Tiền Lê]] trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, [[Lý Thường Kiệt]] được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là [[Lý Thường Hiến]] giữ chức Tán kỵ Võ úy.
Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi [[Ỷ Lan]] và [[Thái sư]] [[Lý Đạo Thành]] trông coi việc nước. Mùa xuân, tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông đích thân dẫn quân đi đánh Chiêm Thành.<ref name="ĐVSKTT">[https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt08.html Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, quyển III]</ref> Bảy ngày sau khi rời khỏi [[Thăng Long]] các đạo quân Việt đã có mặt ở [[Nghệ An]], ba ngày sau tới phía Nam [[núi Hồng Lĩnh]] ([[Hà Tĩnh]]), vào hải phận Chiêm Thành.
Năm ngày sau, Lý Thường Kiệt tới cửa [[Nhật Lệ]] là nơi tập trung của [[thủy quân]] Chiêm Thành. Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chiêm xông ra chặn quân Việt. Tướng của quân Lý là Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại Việt là tiến thẳng tới thành [[Kandapurpura|Phật Thệ]] phá [[kinh đô]] và bắt quốc vương. Bốn ngày sau nữa tới cửa Tư Dung (nay gọi là Tư Hiền) là cửa sông để vào các đầm phá và sông thuộc [[Quy Nhơn]] ngày nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.
Thành Phật Thệ<ref>Sau gọi là Chà Bàn hay là Đồ Bàn, ở vào địa phận tỉnh [[Bình Định]] ngày nay.</ref> ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chiêm là [[Bố Bì Đà La]] dàn trận trên bờ sông Tu Mao (nay gọi là [[sông Côn]]) chặn đánh. Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.
Dòng 39:
Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Chiêm Thành. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến [[bến Đồng La]], dân ở thành Phật Thệ phải xin hàng<ref name="Đại Việt sử lược, tr. 52.">Đại Việt sử lược, tr. 52.</ref>.
Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nói: "''Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?''"
Vua Lý Thánh Tông quay trở lại đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt đem quân theo phía Nam. [[Tháng tư]] quân Lý tiến đến [[biên giới]] [[Chân Lạp]] (Campuchia), qua các vùng [[Phan Rang (định hướng)|Phan Rang]], [[Phan Thiết]] ngày nay mà [[tiếng Chiêm]] gọi là Panduranga. Tháng 4, Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. [[Vua Chăm Pa|Vua Chiêm]] vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng.
Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý Thường Kiệt.
[[Tháng năm|Tháng 5]],
Ngày 19 tháng 6
Chế Củ xin dâng 3 châu [[Bố Chính]], [[Ma Linh]] và [[Địa Lý]] (vùng đất từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) để chuộc tội nên sau đó ông được tha về.
==Xem thêm==
|