Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lục Kháng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 19:
==Sự nghiệp==
Năm Xích Ô thứ 9 (246),
Năm Thái Nguyên đầu tiên (251), Kháng về Kiến Nghiệp chữa bệnh. Bệnh khỏi, Kháng sắp trở lại đồn, Ngô
Năm Kiến Hưng đầu tiên (252), Kháng được bái làm Phấn uy tướng quân. Năm Thái Bình thứ 2 (257), tướng [[Tào Ngụy|Ngụy]] là [[Gia Cát Đản]] dâng Thọ Xuân hàng Ngô, triều đình bái Kháng làm Sài Tang đốc, khiến ông tham gia giải vây Thọ Xuân. Kháng được ghi công đánh bại quân Ngụy, nhưng quân Ngô thất bại. Sau khi trở về, chủ tướng [[Chu Dị (Tam Quốc)|Chu Dị]] bị quyền thần [[Tôn Lâm]] sát hại, còn Kháng vẫn được thăng làm Chinh bắc tướng quân. {{refn|group=Tam quốc|'''Tam quốc chí, Lục Tốn truyện: Lục Kháng''': Kiến Hưng nguyên niên, bái Phấn uy tướng quân. Thái Bình nhị niên, Ngụy tướng Gia Cát Đản cử Thọ Xuân hàng, bái Kháng vi Sài Tang đốc, phó Thọ Xuân, phá Ngụy Nha môn tướng thiên tướng quân, thiên Chinh bắc tướng quân.}} {{refn|group=Tam quốc|'''Tam quốc chí quyển 56, Ngô chí 11, Chu Trị Chu Nhiên Lã Phạm Chu Hoàn truyện: [[wikisource:zh:三國志/卷56#子_異|Chu Hoàn, tử Dị]]''': Thái Bình nhị niên, Giả tiết, vi Đại đô đốc, cứu Thọ Xuân vi, bất giải, hoàn quân, vi Tôn Lâm sở uổng hại. '''[[Bùi Tùng Chi]] dẫn [[Vi Chiêu]], Ngô thư''': “Lâm yếu Dị tương kiến, tương vãng, khủng Lục Kháng chỉ chi, Dị viết: “Tử Thông, gia nhân nhĩ, đương hà sở nghi hồ!” Toại vãng, Lâm sử lực nhân vu tọa thượng thủ chi, Dị viết: “Ngã Ngô quốc trung thần, hữu hà tội hồ?” Nãi lạp sát chi.}}
Năm Vĩnh An thứ 2 (259), Kháng được bái làm Trấn quân tướng quân, Đô đốc Tây Lăng, phụ trách phòng thủ từ Quan Vũ lại {{ref|2}}
Năm Phượng Hoàng đầu tiên (272), Tây Lăng đốc [[Bộ Xiển]] chiếm thành làm phản, sai sứ hàng [[nhà Tấn|Tấn]]. Kháng nghe tin, trong ngày hôm ấy điều động các cánh quân của bọn [[Tả Dịch]], [[Ngô Ngạn]], [[Thái Cống]] đi thẳng đến Tây Lăng. Kháng hạ lệnh cho quân Ngô xây dựng hàng rào chặt chẽ, từ Xích Khê đến Cố Thị, trong để vây Xiển, ngoài để ngăn viện, đêm ngày thúc ép, cứ như quân Tấn đã đến, khiến lính Ngô rất khổ sở. Chư tướng đều can ngăn, cho rằng quân Ngô tinh nhuệ, có thể gấp rút tấn công, nhằm bắt được Xiển trước khi quân Tấn đến cứu viện, hà tất phải vất vả bao vây; Kháng cho biết thành này ở nơi hiểm yếu, lương thực sung túc, còn được sửa chữa hoàn thiện và trang bị công cụ phòng ngự đầy đủ, là do chính ông quy hoạch, bây giờ phải đánh chính nó, nếu không thể hạ được ngay mà quân Tấn đến cứu viện, trong ngoài thụ địch thì làm sao chống nổi!? Các tướng muốn đánh thành, Kháng không đồng ý. Nghi Đô thái thú Lôi Đàm nài nỉ, Kháng muốn mọi người chịu phục, nên đồng ý cho họ đánh 1 trận, quả nhiên không thắng nổi, mới chấp nhận hợp vây. {{refn|group=Tam quốc|'''Tam quốc chí, Lục Tốn truyện: Lục Kháng''': Phượng Hoàng nguyên niên, Tây Lăng đốc Bộ Xiển cư thành dĩ bạn, khiển sứ hàng Tấn. Kháng văn chi, nhật bộ phân chư quân, lệnh tướng quân Tả Dịch, Ngô Ngạn, Thái Cống đẳng kính phó Tây Lăng. Sắc quân doanh canh trúc nghiêm vi, tự Xích Khê chí Cố Thị, nội dĩ vi Xiển, ngoại dĩ ngữ khấu, trú dạ thôi thiết, như địch dĩ chí, chúng thậm khổ chi. Chư tướng hàm gián viết: “Kim cập tam quân chi duệ, cức dĩ công Xiển, bỉ Tấn cứu chí, Xiển tất khả bạt. Hà sự vu vi, nhi dĩ tệ sĩ dân chi lực hồ?” Kháng viết: “Thử thành xử thế kí cố, lương cốc hựu túc, thả sở thiện tu bị ngự chi cụ, giai Kháng sở túc quy. Kim phản thân công chi, kí phi khả tốt khắc, thả bắc cứu tất chí, chí nhi vô bị, biểu lí thụ nan, hà dĩ ngự chi?” Chư tướng hàm dục công Xiển, Kháng mỗi bất hứa. Nghi Đô thái thú Lôi Đàm ngôn chí khẩn thiết, Kháng dục phục chúng, thính lệnh nhất công. Công quả vô lợi, vi bị thủy hợp.}}
Kháng đang ở trị sở Nhạc Hương, bấy giờ tướng Tấn là Xa kỵ tướng quân [[Dương Hỗ]] soái quân nhắm đến Giang Lăng, chư tướng đều cho rằng nên Kháng nên đến đấy chỉ huy thay vì đi Tây Lăng. Kháng nhận định Giang Lăng thành chắc binh đủ nên không đáng lo, kể cả có mất thì quân Tấn cũng không giữ được, thành ra tổn thất ít thôi. Kháng cho rằng nếu người Tấn dùng Tây Lăng làm điểm tập kết quân đội, ắt các tộc thiểu số ở Nam Sơn sẽ nhiễu loạn, thì nỗi lo không thể nói hết. Vì thế Kháng khẳng định mình thà bỏ Giang Lăng chứ không mất Tây Lăng. Khi xưa Giang Lăng bằng phẳng rộng rãi, đường xá thông thoáng, Kháng lệnh cho Giang Lăng đốc [[Trương Hàm]] làm đập lớn để ngăn nước, điều tiết lượng nước chảy vào đồng bằng, nhằm tận dụng
Tướng Tấn là Ba Đông giám quân [[Từ Dận]] soái thủy quân đi Kiến Bình, Kinh Châu thứ sử [[Dương Triệu]] đến Tây Lăng. Kháng lệnh cho Trương Hàm cố thủ Giang Lăng, Công An đốc Tôn Tuân tuần tra bờ nam đề phòng Dương Hỗ, Thủy quân đốc Lưu Lự, Trấn tây tướng quân Chu Uyển chống lại Dận. Kháng tự soái ba quân, dựa vào hàng rào trước đó để đối trận với Triệu. Tướng quân Chu Kiều, Doanh đô đốc Du Tán chạy sang với Triệu, Kháng nói: “Tán là lại cũ ở trong quân, biết rõ hư thật của ta, tôi luôn lo lính người Di vốn không tinh nhuệ, nếu địch đánh rào, tất nhắm đến chỗ này trước.” Đêm ấy Kháng dời lính Di, lấy tướng cũ bổ sung. Hôm sau, Triệu quả nhiên đánh vào chỗ của lính Di, Kháng lệnh cho toàn quân đánh trả, tên đá như mưa, quân Tấn tử thương liên tiếp. Giằng co cả tháng, quân Tấn hết kế phải bỏ trốn trong đêm. Kháng muốn đuổi theo, nhưng lo Bộ Xiển ở trong thành thừa cơ đánh ra, vì thế ông đành nổi trống dọa nạt, nhưng vẫn khiến quân Tấn sợ hãi, đều cởi giáp bỏ chạy. Khi ấy Kháng mới cho quân Ngô mới
Kháng hạ thành Tây Lăng, giết hết cả họ của Xiển cùng quan tướng của ông ta, rồi xin tha cho mấy vạn người còn lại. Kháng sửa chữa thành trì, sau đó quay về Nhạc Hương, không hề tỏ ra kiêu căng, mà vẫn khiêm tốn như thường, nên tướng sĩ Ngô đều hài lòng. Nhờ công, Kháng được gia bái làm Đô hộ. Mùa xuân năm thứ 2 (273), Kháng được bái làm Đại tư mã, Kinh Châu mục. {{refn|group=Tam quốc|'''Tam quốc chí, Lục Tốn truyện: Lục Kháng''': Kháng toại hãm Tây Lăng thành, tru di Xiển tộc cập kì đại tướng lại, tự thử dĩ hạ, sở thỉnh xá giả sổ vạn khẩu. Tu trì thành vi, đông hoàn Nhạc Hương, mạo vô căng sắc, khiêm trùng như thường, cố đắc tướng sĩ hoan tâm. Gia bái đô hộ. Nhị niên xuân, tựu bái Đại tư mã, Kinh Châu mục.}}
Mùa hạ năm thứ 3 (274), Kháng bệnh nặng, sang mùa thu thì mất. Con trưởng là Lục Yến được kế tự, quân bản bộ của Kháng được chia cho các con là [[Lục Yến|Yến]], [[Lục Cảnh|Cảnh]], Huyền, [[Lục Cơ|Cơ]], [[Lục Vân|Vân]]. {{refn|group=Tam quốc|'''Tam quốc chí, Lục Tốn truyện: Lục Kháng''': Tam niên hạ, tật bệnh... Thu toại tốt, tử Yến tự. Yến cập đệ Cảnh, Huyền, Cơ, Vân, phân lĩnh Kháng binh.}}
==Gia đình==
|