Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Bạch”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.226.18.247 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Nguyenquanghai19
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 142:
Nhà thơ [[Bì Nhật Hưu]] thời [[vãn Đường]] nói rằng: ''"Từ khi [[nhà Đường]] dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch"''.
 
Lý Bạch làm hơn 20.000 bài [[thơ]] cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ [[dân gian]] ghi chép lại. Sau [[loạn An Sử|loạn An Lộc Sơn]] thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm [[762]] thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm [[1080]], Sung Minh Chiu người [[Cao Ly]] mới gom góp lại các tập thơ của Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: ''[[Tương Tiến Tửu|Thương Tiến Tửu]], [[Hiệp khách hành]], [[Thanh Bình Điệu]], [[Hành lộ nan]]''...
 
Khác với Đỗ Phủ,nhà thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (''Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ''...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (''Cổ phong, Quan san nguyệt''...), cảm thông cho người chinh phụ (''[[Trường can hành]], Khuê tình, Tử dạ thu ca''...), về tình bạn hữu (''Tống hữu nhân, [[Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng]], Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu''...), tình trai gái (''Oán tình, [[Xuân tứ]]''...), nhớ quê hương (''[[Tĩnh dạ tứ]], Ức Đông Sơn''...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (''[[Tương Tiến tửu]], [[Bả tửu vấn nguyệt]], 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu''...).