Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Tường (Tam Quốc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dhgtvt171 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dhgtvt171 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 8:
 
==Sự nghiệp==
Cuối đời Hán loạn lạc, Tường đem mẹ kế và em khác mẹ là [[Vương Lãm]] lánh nạn ở Lư Giang, ẩn cư hơn 30 năm, lấy cớ phải phụng dưỡng mẹ già, không nhận lời làm quan ở châu quận. Mẹ kế mất, Tường đã gần 60 tuổi, được Từ Châu thứ sử [[Lữ Kiền]] mời làm Biệt giá, vẫn cố từ chối. Lãm khuyên anh, còn sắp sẵn bò xe, nên Tường nhận lời, được Kiền gởi gắm chánh sự của châu. Bấy giờ cướp bóc đầy dẫy, Tường khích lệ binh sĩ, lần lượt đánh dẹp. Cả châu được yên, chánh sách và giáo hóa được thi hành. Người đương thời ca ngợi: “Ven biển được yên, thật nhờ Vương Tường. Nước nhà chẳng rỗng, công của Biệt giá.” {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, Vương Tường truyện''': Hán vị tao loạn, phù mẫu huề đệ Lãm tị địa Lư Giang, ẩn cư tam thập dư niên, bất ứng châu quận chi mệnh. Mẫu chung, cư tang hủy tụy, trượng nhi hậu khởi. Từ Châu thứ sử Lữ Kiền hịch vi biệt giá, Tường niên thùy nhĩ thuận, cố từ bất thụ. Lãm khuyến chi, vi cụ xa ngưu, Tường nãi ứng triệu, Kiền ủy dĩ châu sự. Vu thì khấu đạo sung xích, Tường suất lệ binh sĩ, tần thảo phá chi. Châu giới thanh tĩnh, chánh hóa đại hành. Thì nhân ca chi viết: “Hải nghi chi khang, thật lại Vương Tường. Bang quốc bất không, biệt giá chi công.”}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''[[Lưu Hiếu Tiêu]] chú [[Lưu Nghĩa Khánh]], [[Thế thuyết tân ngữ]] quyển Thượng, tập Thượng, [[wikisource:zh:世說新語/德行|Đức hạnh đệ nhất]], dẫn [[Ngu Dự]], Tấn thư''': Tường dĩ hậu mẫu cố, lăng trì bất sĩ. Niên hướng lục thập, thứ sử Lữ Kiền hịch vi biệt giá, thì nhân ca chi viết: “Hải nghi chi khang, thật lại Vương Tường; bang quốc bất không, biệt giá chi công.”}} {{refn|group=Sử liệu khác|'''[[Trần Thọ]], [[Tam quốc chí]] quyển 18, Ngụy thư 18, Nhị Lý Tang Văn Lữ Hứa Điển Nhị Bàng Diêm liệt truyện, [[wikisource:zh:三國志/卷18#呂虔|Lữ Kiền]]''': Văn đế tức vương vị, gia Bì tướng quân, phong Ích Thọ đình hầu, thiên Từ Châu thứ sử, gia Uy lỗ tướng quân. Thỉnh Lang Da Vương Tường vi biệt giá, dân sự nhất dĩ ủy chi, thế đa kì năng nhâm hiền.}}
 
Tường được Lữ Kiền cử làm tú tài, rồi được triều đình trừ làm Ôn huyện lệnh, dần được thăng đến Đại tư nông. Ngụy đế [[Tào Mao]] nối ngôi, Tường nhờ công sách lập, được phong Quan nội hầu, bái Quang lộc huân, chuyển làm Tư lệ hiệu úy. Tường theo quân đội đánh dẹp Vô Khâu Kiệm, được tăng ấp 400 hộ, thăng làm Thái thường, phong Vạn Tuế đình hầu. Tào Mao thăm Thái học, mệnh cho Tường làm Tam lão. Tường ngồi ghế chống gậy, quay mặt về phía nam, giữ thân phận của thầy. Tào Mao quay mặt về phía bắc để học tập, nghe thầy giảng dạy yếu lĩnh của việc chánh trị - giáo hóa của vua tôi thời đại các bậc minh vương, thánh đế; người nghe đều không cầm được nước mắt. {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, Vương Tường truyện''': Cử tú tài, trừ Ôn lệnh, luy thiên Đại tư nông. Cao Quý hương công tức vị, dữ định sách công, phong Quan nội hầu, bái Quang lộc huân, chuyển Tư lệ hiệu úy. Tòng thảo Vô Khâu Kiệm, tăng ấp tứ bách hộ, thiên Thái thường, phong Vạn Tuế đình hầu. Thiên tử hạnh Thái học, mệnh Tường vi Tam lão. Tường nam diện kỉ trượng, dĩ sư đạo tự cư. Thiên tử bắc diện khất ngôn, Tường trần minh vương thánh đế quân thần chánh hóa chi yếu dĩ huấn chi, văn giả mạc bất chỉ lệ.}}
Dòng 16:
Khi [[Tư Mã Viêm]] nối tước Tấn vương, Tường cùng [[Tuân Ỷ]] (con [[Tuân Úc (Tam Quốc)|Tuân Úc]]) đi gặp. Ỷ khuyên Tường nên lạy Tấn vương, ông từ chối, lấy cớ rằng Viêm là tể tướng, mình là tam công, giai thứ ngang nhau, làm thế sẽ khiến uy vọng của cả triều đình bị tổn hại, đức hạnh của cá nhân Viêm chịu khiếm khuyết. Đến khi gặp, Ỷ bèn lạy, còn Tường chỉ vái dài, Viêm nói: “Hôm nay mới biết ông xem trọng tôi như vậy!” {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, Vương Tường truyện''': Cập Vũ đế vi Tấn vương, Tường dữ Tuân Ỷ vãng yết, Ỷ vị Tường viết: “Tướng vương tôn trọng, hà hầu kí dĩ tận kính, kim tiện đương bái dã.” Tường viết: “Tướng quốc thành vi tôn quý, nhiên thị Ngụy chi tể tướng. Ngô đẳng Ngụy chi tam công, công vương tương khứ, nhất giai nhi dĩ, ban lệ đại đồng, an hữu thiên tử tam tư nhi triếp bái nhân giả! Tổn Ngụy triều chi vọng, khuy Tấn vương chi đức, quân tử ái nhân dĩ lễ, ngô bất vi dã.” Cập nhập, Ỷ toại bái, nhi Tường độc trường ấp. Đế viết: “Kim nhật phương tri quân kiến cố chi trọng hĩ!”}}
 
Cùng năm, Tư Mã Viêm lên ngôi, là Tấn Vũ đế, cho Tường được bái Thái bảo, tiến tước làm công, được bổ nhiệm thêm 7 quan viên giúp việc trong phủ. Đế mới ở ngôi, dốc lòng cầu lời thẳng thắn. Tường cùng bọn [[Hà Tằng]], [[Trịnh Xung]] là bậc lão thành, hiếm khi vào chầu, đế sai thị trung [[Nhâm Khải]] đến tận nhà hỏi ý kiến, nhất là các vấn đề chánh trị - giáo hóa. Tường lấy cớ già nua mỏi mệt, nhiều lần xin rời chức, đế không đồng ý. Ngự sử trung thừa [[Hầu Sử Quang]] cho rằng Tường bệnh đã lâu, bỏ tham dự triều hội, xin miễn quan của ông; đế giáng chiếu từ chối. Tường cố xin nghỉ, đế giáng chiếu cho ông được ở phủ đệ tương xứng với thân phận Tuy Lăng công, địa vị ngang với tam công, ở trên tam tư, bổng lộc và ân thưởng như trước. Tường được ở lại kinh đô, nhưng không cần vào chầu; được ban ghế và gậy, triều đình có việc lớn sẽ đến tận nhà để hỏi han; được ban xe 4 ngựa, 1 khu nhà, trăm vạn tiền, 500 xúc lụa, giường màn chiếu đệm; được quyền bổ nhiệm 6 viên Xá nhân và được sở hữu 20 kỵ binh; cho con trai trưởng là Vương Triệu làm Cấp sự trung, để anh ta được ở lại kinh đô, nhằm thuận tiện cho hoàng đế thăm hỏi tin tức của ông. Ngoài ra đế biết Tường tính thanh liêm, vốn không có nhà cửa ở kinh đô, cho phép ông ở nhờ quan phủ, đợi đến khi phủ đệ của Tuy Lăng công xây dựng xong. {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, Vương Tường truyện''': Vũ đế tiễn tộ, bái thái bảo, tiến tước vi công, gia trí thất quan chi chức. Đế tân ái mệnh, hư kỷ dĩ cầu đảng ngôn. Tường dữ Hà Tằng, Trịnh Xung đẳng kì ngải đốc lão, hi phục triều kiến, đế khiển thị trung Nhâm Khải tư vấn đắc thất, cập chánh hóa sở tiên. Tường dĩ niên lão bì mạo, luy khất tốn vị, đế bất hứa. Ngự sử trung thừa Hầu Sử Quang dĩ Tường cửu tật, khuyết triều hội lễ, thỉnh miễn Tường quan. Chiếu viết: “Thái bảo nguyên lão cao hành, trẫm sở bì ỷ dĩ long chánh đạo giả dã. Tiền hậu tốn nhượng, bất tòng sở chấp, thử phi hữu tư sở đắc nghị dã.” Toại tẩm Quang tấu. Tường cố khất hài cốt, chiếu thính dĩ Tuy Lăng công tựu đệ, vị đồng bảo phó, tại tam tư chi hữu, lộc tứ như tiền. Chiếu viết: “Cổ chi trí sĩ, bất sự vương hầu. Kim tuy dĩ quốc công lưu cư kinh ấp, bất nghi phục khổ dĩ triều thỉnh. Kì tứ kỉ trượng, bất triều, đại sự giai tư phóng chi. Tứ an xa tứ mã, đệ nhất khu, tiền bách vạn, quyên ngũ bách thất, sàng trướng điệm nhục, dĩ xá nhân lục nhân vi Tuy Lăng công xá nhân, trí quan kị nhị thập nhân. Dĩ công tử Kị đô úy Triệu vi Cấp sự trung, sử thường ưu du định tỉnh. Hựu ất thái bảo cao khiết thanh tố, gia vô trạch vũ, kì quyền lưu bổn phủ, tu sở tứ đệ thành nãi xuất.”}}
 
Năm Thái Thủy thứ 4 (268), Tường bệnh nặng, di ngôn cho con cháu làm tang lễ đơn giản. Di ngôn của Tường được sử cũ chép lại, đời sau gọi là ''Huấn tử tôn di lệnh'' (训子孙遗令). Tường mất, hưởng thọ 85 tuổi. Triều đình giáng chiếu ban Đông viên bí khí, 1 bộ triều phục, 1 bộ áo, 30 vạn tiền, trăm xúc vải. Bấy giờ mẹ của đế là Văn Minh hoàng hậu [[Vương Nguyên Cơ]] mới mất vào tháng trước, đế bận rộn việc tang nên chậm giáng chiếu bày tỏ sự thương tiếc. Năm sau, Tường được đặt thụy là Nguyên. {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, Vương Tường truyện''': Cập tật đốc, trứ di lệnh huấn tử tôn viết: “Phu sanh chi hữu tử, tự nhiên chi lí. Ngô niên bát thập hữu ngũ, khải thủ hà hận. Bất hữu di ngôn, sử nhĩ vô thuật. Ngô sanh trị quý mạt, đăng dong lịch thí, vô bì tá chi huân, một vô dĩ báo. Khí tuyệt đãn tẩy thủ túc, bất tu mộc dục, vật triền thi, giai hoán cố y, tùy thì sở phục. Sở tứ sơn huyền ngọc bội, vệ thị ngọc quyết, thụ tứ giai vật dĩ liễm. Tây Mang thượng thổ tự kiên trinh, vật dụng bích thạch, vật khởi phần lũng. Xuyên thâm nhị trượng, quách thủ dung quan. Vật tác tiền đường, bố kỉ diên, trí thư tương kính liêm chi cụ, quan tiền đãn khả thi sàng tháp nhi dĩ. Bô các nhất bàn, huyền tửu nhất bôi, vi triều tịch điện. Gia nhân đại tiểu bất tu tống tang, đại tiểu tường nãi thiết đặc sinh. Vô vi dư mệnh! Cao Sài khấp huyết tam niên, phu tử vị chi ngu. Mẫn tử trừ tang xuất kiến. Viên cầm thiết thiết nhi ai, Trọng Ni vị chi hiếu. Cố khốc khấp chi ai, nhật nguyệt hàng sát, ẩm thực chi nghi, tự hữu chế độ. Phu ngôn hành khả phúc, tín chi chí dã; thôi mĩ dẫn quá, đức chi chí dã; dương danh hiển thân, hiếu chi chí dã; huynh đệ di di, tông tộc hân hân, đễ chi chí dã; lâm tài mạc quá hồ nhượng: thử ngũ giả, lập thân chi bổn. Nhan tử sở dĩ vi mệnh, vị chi tư dã, phu hà viễn chi hữu!” Kì tử giai phụng nhi hành chi. Thái Thủy tứ niên hoăng, chiếu tứ Đông viên bí khí, triều phục nhất cụ, y nhất tập, tiền tam thập vạn, bố bạch bách thất. Thì Văn Minh hoàng thái hậu băng thủy du nguyệt, kì hậu chiếu viết: “Vi Tuy Lăng công phát ai, sự nãi chí kim. Tuy mỗi vi chi cảm thương, yếu vị đắc đặc tự ai tình. Kim tiện khốc chi.” Minh niên, sách thụy viết Nguyên.}} {{refn|group=Tấn thư|'''Tấn thư, [[wikisource:zh:晉書/卷003|quyển 3]], đế kỷ 3, Vũ đế kỷ''': (Thái Thủy tứ niên) Tam nguyệt mậu tý, Hoàng thái hậu Vương thị băng. Hạ tứ nguyệt mậu tuất, Thái bảo, Tuy Lăng công Vương Tường hoăng. Kỷ hợi, phụ táng Văn Minh hoàng hậu Vương thị vu Sùng Dương lăng.}}