Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phúc Mãn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Phúc Mãn''' (phiên âm tiếng Mãn: Fuman, {{zh|s=福满|t=福滿|p=Fúmǎn}}, thuộc gia tộc [[Ái Tân Giác La]], là tả vệ Kiến Châu vào thời [[nhà Minh]]. Phúc Mãn là phụ thân của [[Giác Xương An]], tổ phụ của [[Tháp Khắc Thế]] và tằng tổ phụ của [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]]. Năm 1636, [[Hoàng Thái Cực]] xưng đế, truy6truy tôn là Khánh Vương, sau khi [[quân Thanh quântiến vào nhậpTrung quan]]Nguyên, nhà Thanh đã truy tôn ông là Trực Hoàng đế, miếu hiệu là Hưng Tổ.<ref>《[[s:清史稿/卷1|清史稿•太祖本纪一]]》:“都督福满,是为兴祖直皇帝。兴祖有子六:长德世库,次刘阐,次索长阿,次觉昌安,是为景祖翼皇帝,次包朗阿,次宝实。”</ref>Theo "Mãn Châu thực lục" ghi chép, cha của Phúc Mãn là [[Tích Bảo Tề Thiên Cổ]], là con trai của Thanh Triệu Tổ, đô đốc Mạnh Đặc Mục.
 
Căn cứ theo nghiên cứu của các học giả đương đại, Phúc Mãn và Tích Bảo Tề Thiên Cổ có khả năng là nhân vật hư cấu.<ref>{{citation
Dòng 16:
 
==Con trai==
Ái Tân Giác La Phúc Mãn có 6 con trai là: Đức Thế Khố (德世庫), Lưu Xiển (劉闡), Tác Trường A (索長阿), [[Giác Xương An]] (覺昌安), Bao Lãng A (包朗阿), Bảo Thực (寶實). Cư trú tại địa khu Giác La của Hách Đồ A Lạp, cũng gọi là "Lục tổ" của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, [[Ninh Cổ Tháp]] [[bối lặc]]. Năm Thiên Thông thứ 9 (1635) dưới thớithời Hoàng Thái Cực, Hoàng đế ra chiếu ban hậu duệ của Tháp Khắc Thế, con trai thứ tư của Giác Xương An là tông thất, hệ Hoàng đới, hậu duệ những người con trai còn lại của Giác Xương An được ban họ Giác La, hệ Hồng đới.
 
==Tham khảo==