Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thạch (đơn vị đo lường)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại
n Đã lùi lại sửa đổi của 2001:EE0:4A62:DAC0:85BF:5259:3453:64B8 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Keo010122Bot
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 9:
Về khối lượng, từ thời Tống, 1 Thạch là khoảng 71,616 kg. 1 thạch = 4 quân, 1 quân = 30 cân, 1 cân = 16 lạng, 1 cân = 0,6 kg
 
Ví dụ: khi đánh Đại Việt lần 3, quân Nguyên chở theo 17 vạn thạch lương, tương đương khoảng 12.175 tấn. KhôngCần làm thành phần số lương thực nàyđây gồm nhữnggạo loại gì, và có tínhtẻ cảhay sốlúa luơng thực dành cho ngựa chiến hay khôngmỳ. Nếu tất cả là gạo tẻ dành cho người ăn, mỗi người cần ít nhất 0,51 kg gạo mỗi ngày (chưa kể thịt cá lạc vừng để đảm bảo đủ mức ~ 2000 2400- 3000 Kcal/ người/ ngày), thì ngần đó có thể nuôi được đội quân đông khoảng 81.200 Sốngười lươngtrong thực5 đótháng, nếuhoặc khôngđội bịquân 500.000 hạingười thìtrong 24 ngày. Nếu là lùa mỳ, số lương đó sẽ đủ cho đạo quân 81.200 người ăn trong 1 năm, còn đạo quân 500.000 người thì đủ dùng trong 2 tháng.
 
==Nhật Bản==
'''Thạch'''(石, ''koku'') hay '''Thạch cao''' (石高) là một [[đơn vị đo lường Nhật Bản]] dùng để tính thể tích, một thạch tương đương với mười ''[[xích (Nhật Bản)|xích]]'' khối hay mười thước (Nhật) khối. Cụ thể, 3,5937 ''thạch'' có thể tích tương đương một [[mét khối]] hay 1 ''thạch'' tương đương 278,3 [[lít]]. Ban đầu, đơn vị ''thạch'' dùng để đo dung tích [[gạo]], theo các tài liệu sử thì 1 thạch gạo tương đương với số gạo một người tiêu thụ trong 1 năm (còn 1 ''[[Masu (Nhật Bản)|đấu]]'' là lượng gạo 1 người tiêu thụ trong 1 ngày). Tính ra thì 1 thạch gạo nặng 150 kilôgram (23,6 stone hay 330 pound). Kể từ năm 1891 trở đi, 1 thạch được quy định chính xác là {{Frac|240100|1331}} lít, tương đương 180,39 lít (5 [[bushel]] hay 48 [[gallon]]), một con số nhỏ hơn con số cũ.
 
Trong [[Thời kỳ Edo|Thời kỳ Giang Hộ]], mỗi [[phiên (Nhật Bản)|phiên]] đều tổ chức đánh giá thu nhập và số ruộng đất của mình bằng [[đơn vị đo|đơn vị]] thạch. Phiên có thu nhập thấp nhất (và diện tích nhỏ nhất) là "phiên một vạn thạch", còn phiên Kaga - lãnh chúa có thu nhập lớn nhất sau Mạc phủ - được gọi là "phiên một trăm vạn thạch" (cụ thể là 1,025 triệu thạch). Phần lớn các [[samurai|võ sĩ]], kể cả hạng võ sĩ cấp cao ''[[hatamoto]]'' vẫn nhận bổng lộc bằng gạo chứ không phải bằng tiền, và vì vậy số bổng lộc này cũng được tính bằng thạch. Ở các phiên Tōhoku và [[Hokkaidō]] - nơi không phải lúc nào cũng trồng lúa được - thì họ vẫn duy trì đơn vị "thạch" nhưng không điều chỉnh, sửa đổi nó từ năm này qua năm khác. Chú ý là có một số phiên có giá trị nền kinh tế lớn hơn con số "thạch" được thống kê rất nhiều, điều này giúp họ có thể đầu tư nhiều hơn vào một số dự án phát triển kinh tế. ''Thạch'' cũng được dùng làm đơn vị tính sức chứa của những chiếc thuyền chở gạo. Những chiếc thuyền nhỏ thường là loại "50 thạch" (7,5 tấn), trong khi đó loại lớn nhất có dung tích lên tới 1 nghìn thạch (150 tấn), những chiếc này còn lớn hơn cả các tàu chiến trong đội thuyền của Mạc phủ.
 
Sau cuộc [[Minh Trị Duy tân|Minh Trị duy tân]], Nhật Bản chuyển sang dùng các đơn vị đo lường thuộc [[hệ mét]] và vì vậy các đơn vị cũ như "thạch" dần dần bị bãi bỏ. Nhưng đơn vị ''thạch'' hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp khai thác và chế biến gỗ của Nhật Bản.