Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thất nghiệp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
n Đã lùi lại sửa đổi của Sorowtyphu (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của NguoiDungKhongDinhDanh
Thẻ: Lùi tất cả Liên kết định hướng
Dòng 8:
 
== Nguyên nhân ==
Trong [[lịch sử]] loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong [[xã hội tư bản]]{{fact|date=7-2014}}. Ở xã hội cộng đồng [[xã hội nguyên thủy]], việc phải duy trì trật tự trong bầy đàn buộc mọi thành viên phải đóng góp lao động và được làm việc. Trong xã hội [[phong kiến]] [[châu Âu]], truyền đời đất đai đảm bảo rằng con người luôn có việc làm. Ngay cả trong xã hội [[nô lệ]], chủ nô cũng không bao giờ để tài sản của họ (nô lệ) rỗi rãi trong [[thời gian]] dài. Các nền kinh tế theo [[Chủ nghĩa Marx-Lenin|học thuyết Mác-Lênin]] cố gắng tạo việc làm cho mọi cá nhân, thậm chí là phình to bộ máy nếu cần thiết (thực tế này có thể gọi là thất nghiệp một phần hay thất nghiệp ẩn nhưng đảm bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).
 
Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng là [[lợi nhuận]], mặt khác họ không phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải người lao động, do đó họ vui lòng chấp nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động không có các nguồn lực [[sản xuất]] trong tay để tự lao động phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất nghiệp.
 
Các [[học thuyết kinh tế]] học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. [[Kinh tế học Keynes]] nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng [[lao động (kinh tế học)|thị trường lao động]] (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài, như mức [[lương tối thiểu]], [[thuế]], các quy định hạn chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
 
Sau 4 năm tác nghiệp, sự tiếc nuối của mọi người đối với người thất nghiệp [[đại học]] cũng là minh chứng.
 
Việc áp dụng [[nguyên lý cung - cầu]] vào [[thị trường lao động]] giúp lý giải tỷ lệ thất nghiệp cũng như [[giá cả]] của [[lao động (kinh tế học)|lao động]].
Hàng 26 ⟶ 32:
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các [[hàng hóa]] tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ [[tội ác|tội phạm]], tỷ lệ [[tự sát|tự tử]], và suy giảm chất lượng [[sức khỏe]]<ref>{{Chú thích web |url=http://ashleymac.econ.vt.edu/ashley/3204/brenner.pdf |ngày truy cập=2007-03-11 |tựa đề=Một số tác động của nạn thất nghiệp |archive-date = ngày 25 tháng 10 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071025150953/http://ashleymac.econ.vt.edu/ashley/3204/brenner.pdf }}</ref>.
 
Theo một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công việc [[thu nhập (định hướng)|thu nhập]] thấp (trong khi tìm công việc phù hợp) bởi các lợi ích của [[bảo hiểm]] xã hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía người sử dụng lao động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công cho mình (như không cải thiện [[môi trường]] làm việc, áp đặt [[năng suất]] cao, trả [[Tiền lương|lương]] thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến, v.v..).
 
Cái giá khác của thất nghiệp còn là, khi thiếu các nguồn [[tài chính]] và phúc lợi [[xã hội]], cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.