Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Lâm”

không có tóm lược sửa đổi
(Bổ sung tên phố (tại Vũng Tàu).)
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa ngày tháng năm Soạn thảo trực quan
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Soạn thảo trực quan
*Tháng 9/1941, Bùi Lâm lại bị bắt ở [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]] và bị thực dân Pháp giam cầm, đày đọa dã man qua các nhà tù: [[Hải Phòng]], [[Quảng Ngãi]], [[Buôn Ma Thuột|Buôn Mê Thuột]], [[Sơn La]], [[Hỏa Lò|Hoả Lò]] ([[Hà Nội]]). Trong ngục tù, Bùi Lâm luôn luôn tỏ rõ là một đảng viên cộng sản kiên định, trung thành, nguy khó không sờn, không lùi bước.
*Tháng 3 năm 1945, ông đã vượt ngục, trở về đội ngũ tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa.
===Hoạt động trong ngành Tòa ánpháp===
*Ngày 14 tháng 2 năm 1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ra sắc lệnh (số 21) lập [[Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Toà án Quân sự đặc biệt]] (tiền thân của ngành toà[[Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Toà án nhân dân tối cao]]) và cử ông phụ trách. Với cương vị quan trọng này Bùi Lâm đã góp phần quan trọng thực hiện đường lối bảo vệ cách mạng của Đảng, kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng, điển hình là vụ [[Nguyễn Gia Thiều|Ôn Như Hầu]]. Ông được coi như [[Bao Công]] trong ngành tòa án quânViệt sựNam <ref>{{Chú thích web |url=http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/299083?p_page_id=1753011&pers_id=1751940&folder_id=&item_id=3416756&p_details=1 |ngày truy cập=ngày 14 tháng 11 năm 2014 |tựa đề=Bản sao đã lưu trữ |archive-date=ngày 28 tháng 11 năm 2014 |archive-url=https://web.archive.org/web/20141128113606/http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/299083?p_page_id=1753011&pers_id=1751940&folder_id=&item_id=3416756&p_details=1 |url-status=dead }}</ref>.
*Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông phụ trách Tòa án Quân sự liên khu III, rồi phụ trách Toà án nhân dân Liên khu III.
*Từ năm 1954 đến năm 1957, ông giữ chức Giám đốc Vụ Hành chính Tư pháp (thuộc Bộ Tư pháp), rồi Phó Viện trưởng [[Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Việt Nam)|Viện Công tố Trung ương]].
*Ông trúng cử đại biểu quốc hội khoá II (1960-1965) và được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam DCCH tại nước Cộng hoà nhân dân Bungari (từ 1960) và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại nước Cộng hoà dân chủ Đức (năm 1964).
*Sau khi về nước ông được cử giữ chức Phó Viện trưởng [[Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Việt Nam)|Viện kiểm sát nhân dân tối cao]] (ngày 16 tháng 3 năm 1967).
*Ông trải qua nhiều cơncăn bệnh nặnghiểm nghèo do di chứng ngục tù đế quốc để lại. Ông đã qua đời ngày [[10 tháng 5]] năm [[1974]], thọ 69 tuổi.
<ref>{{Chú thích báo
| tên=