Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chất tẩy rửa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017 |
|||
Dòng 13:
Trong khi bột giặt dạng bột và dạng lỏng chiếm thị phần gần như bằng nhau trên thị trường bột giặt toàn thế giới xét về [[Giá trị (tính kinh tế) |giá trị]], thì chất tẩy rửa dạng bột được bán nhiều gấp đôi so với dạng lỏng về [[thể tích]].<Ref name = "cen-2019" />
[[Viên giặt]] đã được bán ở Hoa Kỳ kể từ năm 2012 khi chúng được [[Procter & Gamble]] giới thiệu với tên gọi [[Tide Pods]]. Các trường hợp trước đó của viên giặt bao gồm [[Danh sách nhãn hiệu Procter & Gamble|viên nén Salvo]] được bán trong thập niên 1960 và 1970.<ref name="cr">{{
== Lịch sử ==
Dòng 19:
Từ thời cổ đại, các chất phụ gia hóa học đã được thêm vào để tạo điều kiện cho quá trình giặt cơ học của sợi dệt bằng nước. Bằng chứng sớm nhất ghi lại về việc sản xuất các vật liệu giống như xà phòng có từ khoảng năm 2800 trước Công nguyên, vào thời [[Babylon]] cổ đại.<ref name="soap-babylon" />
Các công ty hóa chất của Đức đã phát triển chất hoạt động bề mặt [[alkyl sulfat]] từ năm 1917, để đối phó với tình trạng thiếu xà phòng trong Phong tỏa Đồng minh Đức khi [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] xảy ra.<ref name="cen-
== Thành phần ==
Dòng 35:
== Thị trường ==
Trên toàn thế giới, trong khi bột giặt dạng lỏng và dạng bột chiếm thị phần gần bằng nhau về giá trị, thì bột giặt dạng bột lại được sử dụng rộng rãi hơn. Năm 2018, doanh số bán bột giặt đạt 14 triệu [[ tấn]], gấp đôi so với lỏng. Trong khi chất tẩy dạng lỏng được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước phương Tây, thì bột giặt dạng bột lại phổ biến ở Châu Phi, Ấn Độ, Trung Quốc, Châu Mỹ Latinh và các [[thị trường mới nổi]] khác chẳng hạn như ở Việt Nam. Bột giặt cũng chiếm thị phần đáng kể ở Đông Âu và một số nước Tây Âu do có lợi thế hơn chất lỏng trong việc làm trắng quần áo. Theo Desmet Ballestra, nhà thiết kế và xây dựng các nhà máy hóa chất và thiết bị sản xuất chất tẩy rửa, chất tẩy rửa dạng bột chiếm 30–35% thị phần ở Tây Âu. Theo [[Lubrizol]], thị trường bột giặt đang tăng 2% hàng năm.<ref name="cen-
== Mối quan tâm về môi trường ==
Hóa chất phốt phát trong chất tẩy rửa trở thành mối quan tâm về môi trường trong những năm 1950 và là chủ đề của lệnh cấm trong những năm sau đó.<ref>{{
Một nghiên cứu hàn lâm gần đây về các sản phẩm tẩy rửa có hương thơm cho thấy "hơn 25[[Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi| VOC]] phát ra từ các lỗ thông hơi của máy sấy, với nồng độ cao nhất các chất như [[acetaldehyde]], [[aceton]] và [[etanol]]. Bảy trong số các VOC này được phân loại là chất ô nhiễm không khí nguy hiểm (HAP) và hai là HAP gây ung thư ([[acetaldehyde]] và [[benzen]])".<ref>[[Anne C. Steinemann]], [https://link.springer.com/article/10.1007/s11869-011-0156-1 "Chemical Emissions from Residential Dryer Vents During Use of Fragranced Laundry Products"], ''Air Quality, Atmosphere and Health'', March 2013, Vol. 6, Issue 1, pp. 151–156.</ref>
Dòng 47:
{{Reflist|30em}|refs=
<ref name="cen-2019">{{
<ref name="soap-babylon">{{cite book | last = Willcox | first = Michael | editor = Hilda Butler | title = Poucher's Perfumes, Cosmetics and Soaps | chapter-url = https://books.google.com/books?id=4HI8dGHgeIQC&pg=PA453 | isbn = 978-0-7514-0479-1 | edition = 10th | year = 2000 | publisher = Kluwer Academic Publishers | location = Dordrecht | page = 453 | chapter = Soap | quote = The earliest recorded evidence of the production of soap-like materials dates back to around 2800 BCE in ancient Babylon. | url-status = live | archive-url = https://web.archive.org/web/20160820150103/https://books.google.com/books?id=4HI8dGHgeIQC&pg=PA453 | archive-date = 2016-08-20 }}</ref>
|