Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Tần – Việt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Xóa nội dung có nguồn mà không có tóm lược sửa đổi Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 27:
}}
 
== Chinh phạt lần thứ nhất ==
==Quân Tần nam tiến==
Vào năm Tần Thủy Hoàng thứ hai mươi tám (219 TCN), Tần Thủy Hoàng lấy Đồ Thư làm tướng quân và đưa 500.000 quân chia thành năm đạo quân. Theo ghi chép của các biên niên sử địa phương ở Hồ Nam và các nơi khác, quân đội Tần sử dụng trong cuộc chiến này chủ yếu là quân Tần diệt Sở , nhưng để thích ứng với cuộc chiến phía nam, không dưới 100.000 trong số 500.000 quân. quân do nước Sở ban đầu [5] .
Các sử gia căn cứ theo các ghi chép của [[Sử ký Tư Mã Thiên|''Sử ký'']], Hoài Nam Tử: cuộc chiến kết thúc năm [[208 TCN]] và "kéo dài 10 năm", nên xác định rằng thời điểm [[Tần Thủy Hoàng]] phát binh đánh [[Bách Việt]] khoảng năm 218 - 217 TCN<ref name="CKH220"/><ref name="LSVN123"/>.
 
Quân Tần được chia thành năm lộ trình và tiến xuống từ sườn núi phía Nam . Tuyến đầu tiên tập trung tại Yugan (nay là tỉnh Giang Tây ), tấn công các khu vực Đông Âu và Mân Việt (chủ yếu ở Phúc Kiến ngày nay ), và thành lập quận Minzhong sau khi bị chiếm . Tuyến thứ hai được canh giữ ở Nam Việt (nay là thành phố Nam Cương, tỉnh Giang Tây ), tạo thành một xu hướng áp bức đối với Mân Việt và Nam Việt. Con đường thứ ba đi qua Trường Sa ngày nay, tiếp theo là cưỡi Thiên Lăng và chiếm Phiên Ngung ở Nam Việt. Tuyến thứ tư đóng tại núi Jiuyi (nay là phía nam huyện Ninh Viễn , tỉnh Hồ Nam ), và tuyến thứ năm đóng tại Yuechengling gần Tancheng (nay là phía tây nam của Jingzhou Miao và Dong Autonomous County , Hunan Province ) , sẵn sàng cùng nhau tấn công Xiou . Hai tuyến đường phía tây nhất của nó lần đầu tiên đánh bại sự kháng cự của Tây Âu và giết chết Tây Âu Yiyu Song. Năm thứ hai, quân Tần đã xâm nhập hoàn toàn vào nội địa Nam Việt, và ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tương Quân được đặt làm cơ sở cho việc thành lập thành phố Nam Vũ ở cửa sông Châu Giang, phía bắc. của Quảng Tây, và ngã ba của Việt Nam và Quảng Tây. Đầu quân Tần, Đường Tư Đồ và Đường Chiêu Nghi, tổng cộng 200.000 con ngựa, là những người đầu tiên tấn công. [5]
Quân Tần do Lâu thuyền tướng quân [[Đồ Thư]] làm tổng chỉ huy, trong đội ngũ có một tướng [[Bách Việt|người Bách Việt]] là [[Sử Lộc]] vốn thông thạo đường sá, đất đai phía nam và từng làm chức ''Ngự sử giám'' của [[nhà Tần]].
 
Phần lớn binh lính của quân Tần là từ phía bắc, và phần lớn là từ Thiểm Tây , Sơn Tây và Hà Nam . Khoảng 218 năm trước, quân Tần gặp phải sự kháng cự ngoan cố từ Tây Âu ở Quảng Tây, sau khi thủ lĩnh tộc Tây Âu là Yiyu Song chết, người Tây Âu đã chạy trốn vào rừng để tiếp tục kháng chiến và cắt đứt đường lương thực của quân Tần. " "ghi chép rằng Tây Âu " tấn công Tần vào ban đêm, đập tan nó, giết chết Yutu Sui, chôn xác và đổ máu hàng trăm ngàn ", buộc quân Tần" ở một nơi vô dụng, sau đó không phải rút lui ", vì vậy “ba năm không tháo giáp, giãn nỏ, để tù không chuyển lương” [6] [7] .
Quân Tần đóng sát các thủy lộ chính, dùng thuyền để chuyển quân cũng như lương thảo. Tuy nhiên không thể băng qua núi bằng đường sông, nên phải đào kinh Linh Cừ để vận chuyển, khởi công đào từ năm 219 TCN do thiết kế của giám quan Sử Lộc. Đạo quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng đã đào núi làm sông để chuyển lương. Phỏng đoán là việc đào kinh này tốn khoảng 3 năm (hoàn tất năm 216 TCN).
 
Sau khi Đồ Thư chết, phó tướng của ông là Triệu Đà lên thay. Quân Tần tổn thất khoảng 300.000 người, 200.000 người còn lại rút về phía đông Lĩnh Nam . Quân Tần phái thêm bọn tội phạm canh giữ biên giới, 500.000 người "lưu vong di cư" bị Tần phái đến Nanyue "lưu lạc linh tinh". Vì nhiều người từ đồng bằng miền Trung đến Lĩnh Nam không có vợ nên Triệu Đà yêu cầu Tần Thủy Hoàng phái 3 vạn cung nữ xuống phía nam, nhưng Tần Thủy Hoàng chỉ phái 15 vạn người. Vì vậy, nhiều người trong số họ đã lấy phụ nữ Việt Nam làm vợ. Dưới sự bảo trợ của Triệu Đà, nhà Tần bắt đầu giảm bớt mối quan hệ giữa người Việt và những người cai trị của họ. Với sự mở rộng quy mô của các cuộc hôn nhân, số người từ phương Bắc vào trấn giữ biên giới cũng ngày một nhiều hơn. [số 8]
Theo sách ''Hoài Nam tử'', 50 vạn quân Tần chia làm 5 đạo<ref name="LSVN125">[[Phan Huy Lê]], [[Trần Quốc Vượng]], [[Hà Văn Tấn]], [[Lương Ninh]], sách đã dẫn, tr. 125.</ref>:
 
#Đạo thứ nhất đóng ở Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần). Nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy. Là đèo thuộc đất Thủy An trên núi Việt Thành, [[Ngũ Lĩnh]], trên đường từ [[Hồ Nam]] xuống đông bắc [[Quảng Tây]].
#Đạo thứ hai đóng ở Cửu Nghi sơn, tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15&nbsp;km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam – Quảng Đông). Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương đối khá phẳng, đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.
#Đạo thứ ba đóng ở [[Phiên Ngung (kinh đô)|Phiên Ngung]], nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay. Quân Tần từ vùng hồ Bá Dương, theo sông Cám tiến về phía nam, đến đóng gần Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay, rồi vượt Đại Du lĩnh để tiến vào Lĩnh Nam. Sau khi vượt ải, đạo quân tiến vào Phiên Ngung bằng một chi nhánh chính của Bắc giang.
#Đạo thứ tư đóng ở Nam Dã, thuộc quận Dự Chương về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị (Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu, phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang (Sông Dự Chương). Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây. Một đạo quân Tần đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.
#Đạo thứ năm đóng ở sông Dư Can (thời Tần) hay Dư Hãn (thời Hán) là Tín giang (Xin jiang) ngày nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bá Dương. Tọa lạc tại huyện Dư Can của quận Dự Chương tỉnh Giang Tây ngày nay. Quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt. Phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm (Yingtan) ngày nay, tại đây có xa lộ băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần). Khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn (nối với sông Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).
 
Đạo thứ năm vượt Vũ Di Sơn để tấn công vào Phúc Kiến là đất của người Mân Việt và Đông Việt: Quân Tần từ hồ Bá Dương ngược dòng sông Dư Can lên đóng tại thượng nguồn. Sau đó đã theo một nhánh của sông Dư Can (Tín giang) đi về phía nam là nơi có đường đèo để vượt qua Vũ Di sơn đến sông Mân, rồi theo sông này đến Phúc Châu để chinh phục Mân Việt. Thấy quân Tần tiến sang quá đông đảo, vua Mân Việt bỏ chạy. Vùng này rơi vào tay quân Tần.Quân Tần đã chiếm đóng vùng này tới khi bị Hán diệt. Đạo quân Tần này đã thành công trong việc xâm chiếm Mân Việt và Đông Việt, hai nước này bị đặt là quận Mân Trung, gồm tỉnh Phúc Kiến và phía nam tỉnh Chiết Giang ngày nay.
 
Đạo thứ ba từ vùng hồ Bá Dương, theo sông Cám tiến về phía nam, đến đóng gần Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay, rồi vượt Đại Du lĩnh để tiến vào Lĩnh Nam. Sau khi vượt ải, đạo quân này đi theo đường [[Trường Sa (nước)|Trường Sa]] tiến vào Phiên Ngung bằng một chi nhánh chính của Bắc giang. Quân cũng như lương thảo theo thủy lộ này nhập vào Chu giang đến Phiên Ngung là Quảng Châu ngày nay.Triệu Đà đã đến Lĩnh Nam từ năm 228 TCN khi quân Tần xâm lăng nước Triệu (thời Chiến quốc). Khi Nhâm Ngao mang quân đến Phiên Ngung, ông được phong làm huyện lệnh ở Long Xuyên là một trong 7 huyện ở quận Nam Hải,. Đạo quân Tần tiến vào Phiên Ngung đã thành công trong việc xâm lăng. Nhà Tần đặt vùng này làm quận Nam Hải, dưới quyền cai trị của quan uý là Nhâm Ngao. Nhâm Ngao chết, Triệu Đà lên thay thế.
 
Đạo quân thứ nhất và đạo thứ hai tiến sâu về phía nam, vào [[Quảng Tây]] là địa bàn của người [[Âu Việt|Tây Âu]], hay [[Âu Việt]].
 
Đạo thứ ba đóng ở [[Phiên Ngung (kinh đô)|Phiên Ngung]] thuộc [[người Nam Việt|Nam Việt]] ([[Quảng Đông]]), đi theo đường [[Trường Sa (nước)|Trường Sa]] vượt qua [[Ngũ Lĩnh]] đến [[Quảng Đông]].
 
Đạo quân thứ tư và đạo quân thứ năm tạo thành hai cánh quân đánh Đông Việt (nam [[Chiết Giang]]) và Mân Việt ([[Phúc Kiến]]). Sau đó hai đạo quân này cùng đạo quân thứ ba hội nhau ở [[Phiên Ngung (kinh đô)|Phiên Ngung]], hội với đạo quân thứ ba, đánh chiếm đất [[người Nam Việt|Nam Việt]], lập ra quận [[Nam Hải quận|Nam Hải]].
 
Trong khi 3 đạo quân nói trên tác chiến, đạo quân thứ nhất và thứ hai ngược dòng [[Tương Giang|sông Tương]] bắt nguồn từ [[Nam Lĩnh|Ngũ Lĩnh]], nhưng đến đầu nguồn thì không có đường thủy để chở lương sang [[Ly Giang|sông Ly]] (tức [[Quế Giang|sông Quế]]) – vùng nội địa [[Quảng Tây]]. Vì vậy, [[Đồ Thư]] sai [[Sử Lộc]] mang một số binh sĩ đi làm cừ để mở đường lương. Đường cừ mà [[Sử Lộc]] mở được các nhà sử học xác định chính là [[Linh Cừ]] hay kênh Hưng An nối liền [[sông Tương]] và [[Quế Giang|sông Quế]], hiện nay vẫn còn<ref name="CKH220"/><ref name="LSVN125"/>.
 
Khoảng năm 216 TCN, sau khi đào xong kinh Linh Cừ, đạo quân (khoảng 200 ngàn người) dưới sự lãnh đạo của Lâu thuyền tướng quân là quan Uý Đồ Thư theo Ly giang tiến vào Tây Âu. Khi tiến đến vùng hợp lưu của sáu con sông lớn: nước Tây Âu, các đạo quân này chia quân ngược dòng các thủy đạo thiên nhiên để đánh chiếm đất của người Bách Việt tuy nhiên đã gặp sự chống trả mãnh liệt của người Bách Việt.
 
==Sự kháng cự của người Việt==