Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Matthias của Thánh chế La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bổ sung thêm nhiều ý nói về Matthias.
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 5:
Matthias sinh ở thủ đô [[Lãnh địa công tước Áo|Áo]] là [[Viên]] là con của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã]] và [[Maria của Tây Ban Nha]].
 
Matthias cưới [[Anna của Áo, (vợVương Matthias)hậu Pháp|Nữ đại công tước Anna của Áo]], con gái của chú ông - [[Ferdinand II, Đạicủa côngThánh tướcchế ÁoLa Mã|Đại công tước Ferdinand II]], người được Matthias thừa kế năm 1595. Matthias không có con trong cuộc hôn nhân này.
Matthias không nhận được lãnh thổ nào sau cái chết của cha mình. Người cai trị [[Vương tộc Habsburg|Habsburg]] không có khả năng và không đáng tin cậy này đã được giới quý tộc Công giáo của Hà Lan Tây Ban Nha mời thay thế Don Juan của Áo làm toàn quyền (1577). Không thể dàn xếp được một nền hòa bình thỏa hiệp giữa Tây Ban Nha và phe Tin lành do William of Orange đứng đầu, ông trở về Đức vào năm 1581. Được bổ nhiệm làm thống đốc Áo vào năm 1593 bởi người anh cả của mình, hoàng đế [[Rudolf II của Thánh chế La Mã|Rudolf II]], Matthias tiếp tục chính sách ủng hộ Phản đế của Hoàng đế. - Cải cách, trấn áp một số cuộc nổi dậy của nông dân (1595–97) do chính quyền cố gắng đàn áp đạo Tin lành, mặc dù không phải là không bị buộc phải nhượng bộ. Vào khoảng năm 1598, ông gặp Melchior Klesl, một giáo sĩ đã trở thành cố vấn chính của ông và đóng một vai trò quan trọng trong các công việc của triều đình. Khi bước sang thế kỷ, Rudolf ngày càng trở nên mất cân bằng và không thể điều hành các công việc của nhà nước, các tổng thành của Hạ viện [[Vương tộc Habsburg|Habsburg]] buộc phải dàn xếp kế vị. Năm 1606, họ công nhận Matthias, người anh cả Ernest đã qua đời năm 1595, là người đứng đầu gia đình và là người thừa kế ngai vàng. Giờ đây, anh bắt đầu cuộc chiến chống lại Rudolf kéo dài cho đến khi Hoàng đế qua đời vào năm 1612.
 
Matthias từng là tổng tư lệnh của đế quốc chống lại [[người Thổ Nhĩ Kỳ]] trong các năm 1594–95 và 1598–1601. Năm 1606, ông có thể ký một hiệp định đình chiến, được tái khẳng định vào năm 1615, mang lại hòa bình cho biên giới [[Đế quốc Ottoman|Thổ Nhĩ Kỳ]] trong nửa thế kỷ. Ông cũng kết thúc một cuộc nổi dậy của Hungary bằng cách đàm phán một hòa bình vào năm 1606, trao quyền tự do tôn giáo cho các điền trang và một số biện pháp tự trị chính trị. Vào năm 1608, các điền trang của Hungary, Áo và [[Morava|Moravia]] liên minh với Matthias để chống lại Hoàng đế, Rudolf đã bị một đòn nặng. Matthias đã giành được vương miện Hungary (với tên Matthias II), mà ông đã thêm vào đó là của Bohemia vào năm 1611, nhưng trong cả hai trường hợp đều bị buộc phải nhượng bộ thêm cho những người theo đạo Tin lành.
 
Sau khi kế vị ngai vàng sau cái chết của Rudolf vào năm 1612, Matthias ngày càng rút lui khỏi cuộc sống công cộng, để lại Klesl phụ trách hầu hết các công việc của nhà nước. Chế độ ăn kiêng của hoàng gia đã bị tê liệt kể từ năm 1608 về các tranh chấp giữa các hoàng tử theo đạo Tin lành và Công giáo, nhưng Matthias và Klesl đã thất bại trong nỗ lực hòa giải cả hai bên, trong khi các tổng thành Habsburg trẻ tuổi hơn khuyến khích các hoàng tử Công giáo của Đức can dự hơn nữa. Các hoàng đế quyết định rằng hoàng đế Ferdinand của Styria (hoàng đế tương lai Ferdinand II) nên kế vị Matthias, người đã già, ốm yếu và không có con làm hoàng đế. Ferdinand được chấp nhận làm vua của Bohemia vào năm 1617 và lên ngôi vua của Hungary vào năm 1618 nhưng vấp phải sự phản kháng của những người theo đạo Tin lành ở Bohemia. Matthias và Klesl khuyên những người theo đạo Tin lành nên nhượng bộ, nhưng Ferdinand từ chối thỏa hiệp. Kết quả là Cuộc nổi dậy Bohemian năm 1618 trở thành hành động thù địch đầu tiên của [[Chiến tranh Ba Mươi Năm|Chiến tranh Ba mươi năm]]. Matthias qua đời vào năm sau đó.
 
==Tham khảo==